Tớ đọc nhiêu bài về nợ công VN và các nước, thu thập được một số lượng kha khá tài liệu về đề tài này nhưng chưa có cơ hội và thời gian để viết. Hôm nào rảnh sẽ làm một vài bài.
(Tuổi trẻ) Cần có những giải pháp xử lý
trước khi quá muộn. Đó là khuyến cáo của nhiều chuyên gia tại hội thảo
khoa học “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở
đối với VN” do Viện hàn lâm Khoa học VN tổ chức ngày 25-4. Các đại biểu cũng đề nghị để khỏi bị động trong việc xử lý, VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công.
Thế giới nói 128,9 tỉ USD, VN tính 66,8 tỉ USD
Dẫn tính toán của chuyên gia
Liên Hiệp Quốc, trao đổi với Tuổi Trẻ bên lề hội thảo, TS Nguyễn Trọng
Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ
công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần
gấp đôi mức VN công bố chính thức.
TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện
trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch – đầu tư), cũng đồng tình
và chỉ ra rằng năm 2011, ước tính theo quốc tế thì nợ công của VN là
128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP. Nhưng con số mà Bộ Tài chính công bố
chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.
Các nhà khoa học cũng đồng tình
với nhận định của TS Hồ khi cho rằng cái khó nhất nói về thực trạng nợ
công của VN là thiếu số liệu và không đủ tin cậy. Thời gian cập nhật nợ
công của các nước là hằng quý, còn ở VN Bộ Tài chính mới chỉ công bố đến
năm 2010 và ước tính đến năm 2011 thôi.

So
sánh mức nợ công, nợ nước ngoài của Việt Nam với một số nước ASEAN
((tính đến ngày 31-12-2011)) – Nguồn: Vụ tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch
nước – Đồ họa: V.CƯỜNG
Box 1. “Cứ thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cứ vay nợ không sử dụng hiệu quả chắc chắn khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra”
PGS.TS Nguyễn An Hà
Bày tỏ quan điểm cá
nhân, ThS Đinh Mai Long – Vụ Tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước – nêu
trong 10 năm trở lại đây, nợ công tại VN tăng nhanh một cách đáng lo
ngại và có cơ cấu kém bền vững, bị tác động mạnh của những cú sốc từ nền
kinh tế thế giới, đặc biệt là các cú sốc tỉ giá. Cơ cấu đồng tiền vay
nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là các đồng tiền chủ chốt như JPY chiếm
khoảng 39%, bằng SDR khoảng 27%, bằng USD khoảng 22%, bằng EUR khoảng
9%. Đối với vay nước ngoài của doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước – DNNN) được Chính phủ bảo lãnh) chủ yếu tập trung vào USD (chiếm
từ 70-80%). Kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6-2011, ba đồng tiền chủ
chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của VN đã lên giá lần
lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cho thấy gánh nặng nợ
nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép
đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ.
Mặt khác, ông Long
cũng lưu ý là vay nợ từ Trung Quốc gia tăng nhanh trong mấy năm gần đây –
khoảng 1,2 tỉ USD. Ngoài ra, tốc độ gia tăng nợ công khoảng 15%/năm
đang dần “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân sách khoảng 17-21%, có nghĩa là
vài ba năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để bù trả nợ – ông Long nhấn mạnh.
Nợ công của VN năm 2011
Nguồn: Vũ Quang Việt, “Nợ công, nợ ngân hàng VN được hé mở”, tạp chí Diễn Ðàn, 25-11-2011
|
Bỏ qua nợ của DNNN
Nợ công của VN vì
sao lại chỉ bằng một nửa so với cách tính của thế giới? TS Nguyễn Trọng
Hậu cho rằng thế giới có tiêu chí nợ công chung, họ có năm thành tố thì
VN chỉ có ba. Có hai yếu tố chưa được tính vào nợ công của VN đó là nợ
của DNNN và khoản Nhà nước vay của quỹ hưu trí. Ông Hậu cho rằng với
cách tính nợ công của VN thì thực tế những khoản nợ nước ngoài cả tỉ USD
như của Vinashin không được tính vào nợ công trong khi các nước, doanh
nghiệp nào có vốn nhà nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài
cũng phải tính vào. Một khoản nữa VN chưa tính vào nợ công là khoản tiền
Nhà nước vay của quỹ hưu trí (nếu có), vì về thực chất đây cũng là nợ
của dân.
Cũng theo ông Hậu,
kinh nghiệm hiện nay cần cảnh giác là rất nhiều khoản nợ tư cũng có thể
biến thành nợ công. Như hiện nay có rất nhiều “đại gia” bất động sản có
thể vay nợ nước ngoài. Đây không phải nợ công nhưng khi các “đại gia”
phát triển đến quy mô rất lớn mà nếu để các doanh nghiệp này đổ vỡ có
thể kéo theo hàng loạt hệ lụy cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp,
các “đại gia” không trả được nợ, Nhà nước sẽ phải đứng ra cứu. Như thế
cũng tạo nguy cơ rất lớn khiến phình nợ công rất nhanh.
Còn ông Long thì
cho rằng trên thực tế, dù được hay không được Chính phủ bảo lãnh nhưng
nếu những DNNN không thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ thì Chính phủ
với vai trò chủ sở hữu vẫn phải gánh nợ cho các DNNN này.
Vinashin là một
trong những tập đoàn kinh tế làm ăn thua lỗ mà Chính phủ phải trả nợ
thay các khoản vay quốc tế. Trong ảnh là mô hình một con tàu được trưng
bày trong trụ sở của Vinashin + Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Cần tính theo chuẩn quốc tế
Ông Hậu khuyến cáo
VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công bởi để đến khi “cái
kim trong bọc lâu ngày lộ ra” thì khi đó ứng xử rất bị động. Đặc biệt,
ông Hậu khuyến cáo nguy cơ vay nợ nhiều nhưng nếu sử dụng không hiệu quả
thì rất nguy hiểm. Trong khi đó, nhiều khoản vay nợ của VN được phân bổ
bởi Nhà nước lại có hiệu quả sử dụng không cao…
PGS.TS Nguyễn An Hà
– Viện Nghiên cứu châu Âu – cho rằng với tình hình nợ công và quản lý
nợ công của VN có thể thấy rằng nền kinh tế VN hiện đang có một số đặc
điểm giống với các nước PIIGS (các nước châu Âu có tỉ lệ nợ cao, bao gồm
Hi Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ
công. Đó là tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2007 đến nay, lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên
8% kể từ năm 2006-2011… Do vậy, cần có những giải pháp xử lý trước khi
quá muộn.
Theo GS.TS Đỗ Hoài
Nam – chủ tịch Hội đồng Học viện Khoa học xã hội VN, điều quan trọng là
tìm ra được nguyên nhân của tình trạng đáng báo động về nợ công ở VN.
“Phải chăng đó là vấn đề liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế quá
nóng, dựa quá nhiều vào vốn, phát triển theo chiều rộng. Điều đó đúng
nhưng đã đủ chưa. Người ta còn nói mô hình tăng trưởng dựa vào DNNN làm
ăn kém hiệu quả. Gần như là con nợ lớn nhất của nợ công. Thế thì chúng
ta sẽ phải bắt đầu từ đâu?” – ông Nam băn khoăn.
Ông Nguyễn An Hà
cũng cho rằng nợ công là nguồn lực quan trọng nhưng chất lượng sử dụng
nợ còn quan trọng hơn. Rút ra các bài học từ nghiên cứu, ông Hà cho rằng
con số tuyệt đối nợ công cần minh bạch, rõ ràng. Trong hội nhập quốc
tế, VN phải theo luật chơi quốc tế. Bởi theo ông Hà, các khoản vay đến
hạn thì nước ngoài họ xiết nợ theo luật quốc tế. VN sẽ khó lờ đi được
bởi ông Hà ví dụ trường hợp Vinashin, khi phải trả lãi, ban lãnh đạo mới
của Vinashin lờ đi, nhưng chỉ cần các tổ chức xếp hạng đưa định mức tín
nhiệm của VN xuống một bậc, thành B- lãi suất cho các khoản vay đến VN
tăng, thiệt hại có thể lớn hơn nhiều.
Box 2. Đầu tư công cho nông nghiệp, y tế, giáo dục giảm
Ngày
25-4, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (Bộ Kế
hoạch – đầu tư) cùng Đại sứ quán Ireland đã tổ chức hội thảo đánh giá
hiệu quả đầu tư công. Theo báo cáo nghiên cứu, tỉ trọng đầu tư công của
VN còn bất cập. Ví dụ, trong giai đoạn 2006-2010, đầu tư công cho nông
lâm nghiệp và thủy sản chiếm 6,51% trong tổng đầu tư công thì đến năm
2011 chỉ còn 5,6%; giáo dục – đào tạo giai đoạn 2006-2010 là 3,1% thì
năm 2011 chỉ còn 2,93%; y tế và hoạt động trợ cấp xã hội từ 4,62% xuống
4,05%. Trong khi đó, đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế lại theo xu hướng
tăng, ngay khách sạn nhà hàng cũng tăng từ 0,76% giai đoạn 2006-2010 lên
mức 1,39% vào năm 2011. Cao nhất là vận tải, kho bãi, thông tin –
truyền thông với tỉ lệ 22,95% lên 23,3%…
Báo
cáo cũng khẳng định đầu tư công đã tác động tích cực tới tăng trưởng
của VN nhưng chỉ tác động trong khoảng thời gian năm năm, sau đó giảm
dần. Trong dài hạn, đầu tư tư nhân mới là yếu tố tác động mạnh nhất đến
tăng trưởng kinh tế VN.
No comments:
Post a Comment