Nhìn hình ảnh này (blog basam), tôi lại nhớ mình ngày trước. Cũng sinh ra và lớn lên ở vùng quê, cày, bừa, cắt lúa đương nhiên là chuyện phải biết. Có điều, lúc tôi làm những việc này, tôi đã lớn hơn cậu bé trong ảnh.
Quê hương sau 38 năm giải phóng vẫn còn nghèo khó. Vừa rồi, về Quảng Nam làm CMND, dạo một vòng quanh Thành phố Tam Kỳ, lòng lại buồn bâng quơ. Khắp các tuyến đường chỉ toàn cơ quan chính quyền, không thấy doanh nghiệp đâu cả.
Nghe mấy đứa bạn nói, nó ước giờ có thể quay lại thời cấp 3, nó sẽ chọn con đường công chức (tất nhiên là phải chạy chọt). Nhiều đứa thời đó học từ dốt đến siêu dốt, giờ ngồi ghế công quyền hết rồi vì không thể đi đâu được. Quen biết, chạy chọt... giờ mình về làm cái CMND lại phải nhờ tụi nó giúp. Một cũng anh, hai cũng anh, rồi còn vài trăm uống nước.
Thế học giỏi để làm gì nhỉ!
Nơi đăng tải những bài báo, bài viết của cá nhân chủ blog về các vấn đế kinh tế, tài chính, ngân hàng! Giải đáp các thắc mắc về kinh tế, tài chính & ngân hàng (vui lòng đặt câu hỏi bằng cách comment).
Monday, April 29, 2013
Sunday, April 28, 2013
Nợ công, nợ ngân hàng của VN được hé mở
Bài đã cũ, đăng lại để lưu.
SGTT.VN - Số liệu về nợ công và nợ qua hệ thống tín
dụng ngân hàng là những số liệu cần thiết để đánh giá nền kinh tế Việt
Nam. Nhưng số liệu này cho đến gần đây chỉ được cung cấp nhỏ giọt và
không đầy đủ cho các tổ chức quốc tế như IMF và ADB và có thể việc cung
cấp cho Quốc hội cũng thế.
“Cái nợ” của Vinashin không phải chỉ là chuyện riêng của một công ty đóng tàu làm ăn thiếu hiệu năng và tắc trách, mà còn là cái gánh nợ của chung, vì đã làm giảm “khả tín” của nhiều đơn vị kinh tế khác có nhu cầu kinh doanh đàng hoàng và hiệu quả. Ảnh: Công Khanh |
Tuy nhiên mới đây Bộ Tài chính qua báo cáo của ông Vương Đình Huệ với Quốc hội đã công bố nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chính phủ cũng công bố nợ công, và lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên mạng của họ một vài số liệu về tín dụng ngân hàng.
Những số liệu này chỉ có cho năm 2011 dù không đầy đủ và lại không cập nhật hàng quí theo truyền thống quốc tế nhưng cũng là dấu hiệu đáng mừng. Hình như chính phủ muốn minh bạch hơn một chút. Chính sự thiếu minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách thiếu cơ sở, thậm chí đưa đến những hành động sai lầm.
Bài viết ngắn này chỉ nhằm trình bày một số thông tin về nợ công, và nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng, dựa vào số liệu vừa mới được cơ quan có trách nhiệm của nhà nước cung cấp thay vì những số liệu mà người viết phải nhặt nhạnh khắp nơi để tổng kết lại một cách không chính thức.
Nợ công
Nợ công theo định nghĩa của Việt Nam chỉ bao gồm nợ của chính phủ (gồm cả chính quyền trung ương và địa phương) hoặc nợ được chính phủ bảo lãnh. Nợ bao gồm nợ vay ngân hàng và nợ qua phát hành công trái, cũng như chi phí phải trả mà chưa trả được.
Nợ công theo định nghĩa quốc tế bao gồm nợ theo định nghĩa của Việt Nam và nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ theo định nghĩa quốc tế rõ ràng là phù hợp với tình hình Việt Nam. Chính vì nhà nước làm chủ sở hữu chủ của DNNN do đó mà nhà nước không thể phủi tay để chủ nợ đòi bán tài sản thu nợ theo đúng luật phá sán, như ta đã thấy là nợ của Vinashin đã được chính quyền dồn cho các DNNN khác phải trả.
Bảng 1. Nợ công của Việt Nam năm 2011
Tỷ đồng
|
Tỷ US
|
So với GDP
|
|
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam
|
1,391,478
|
66.8
|
55%
|
Nợ của chính phủ
|
1,085,353
|
52.1
|
43%
|
Nợ chính phủ bảo lãnh
|
292,210
|
14.0
|
12%
|
Nợ chính quyền địa phương
|
13,915
|
0.7
|
1%
|
Nợ công theo định nghĩa quốc tế
|
2,683,878
|
128.9
|
106%
|
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam
|
1,391,478
|
66.8
|
55%
|
Nợ của DNNN (trong và ngoài nước)
|
1,292,400
|
62.1
|
51%
|
Nguồn và chú thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài
chính.Trong nợ nước ngoài của DNN có thể có một phần do chính phủ bảo
lãnh cho nên tổng nợ có tính trùng, phải trừ đi khỏi nợ DNNN, cao nhất
là 14 tỉ.
Như vậy là tổng nợ công theo định nghĩa quốc tế vào cuối năm 2011 đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD), cao hơn 90 tỷ USD mà trước đây tác giả ước tính ở mức tối thiểu.
Tổng số nợ của DNNN là 62.1 tỷ USD bằng 55% GDP.
Mức trần tỷ lệ nợ công trên GDP không quá 65% GDP vào năm 2015 mà chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua từ lâu rồi. Không ý thức được điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể phù hợp.
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực trả nợ
Theo ông Huệ, hệ số nợ trên tính trên vốn tự có là 1,77. Thông thường, người có 1 đồng vốn có thể dễ dàng đi vay thêm 1 đồng vốn nữa như vậy thì tỷ lệ trên là 1. Nếu tỷ lệ càng cao thì mức rủi ro trong sản xuất càng lớn vì áp lực phải trả lãi.
Với hệ số nợ là 1,77, thì 64% là vốn vay. Chúng ta có thể dễ dàng làm mô hình về khả năng phá sản của công ty. Thí dụ nếu lãi suất trả nợ là 15% nhưng lợi nhuận chỉ là 10% trên vốn đầu tư thì lợi nhuận (tính theo doanh thu trừ chi phí phi tài chính) chỉ đủ trả lãi. Nếu lợi nhuận thấp hơn 10% thì công ty lỗ, mất khả năng trả nợ. Phải chăng đây là trường hợp của hầu hết DNNN và cả DNTN hiện nay?
Theo ông Huệ, có đến 30 tập đoàn, tổng công ty hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó có 8 đơn vị có hệ số trên 10 lần, 10 doanh nghiệp từ 5 – 10 lần, 12 tập đoàn, tổng công ty từ 3 - 5 lần. Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ. Nếu không giảm được lạm phát, qua đó giảm lãi suất thì doanh nghiệp nói chung khó có khả năng sống còn.
Bảng 2. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
Hệ số trên vốn tự có của DNNN
|
Tỷ lệ
|
|
Vốn tự có
|
1
|
36%
|
Vốn vay
|
1.77
|
64%
|
Tổng vốn
|
2.77
|
100%
|
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực ngân sách
Nếu 8,8% là nợ xấu thì tổng số nợ xấu trong nợ công sẽ là 11,3 tỷ USD. So với tổng ngân sách thu của nhà nước năm 2011 là 33,8 tỷ USD bằng 28% GDP thì con số nợ xấu trên rất lớn, vượt ngoài sức chịu đựng của ngân sách. Trong việc giải quyết nợ công xấu, ai sẽ là người chịu thiệt? Không lẽ ngân sách chỉ dùng để trả nợ xấu? Hay in tiền tạo lạm phát?
Nợ nước ngoài
Hiện nay nợ nước ngoài vẫn chưa được bộ Tài chính công bố cho năm 2011. Con số năm 2010 ở bảng 3 là từ Bộ Tài chính, nhưng con số năm 2011 là ước tính dùng tốc độ tăng của năm trước. Nợ nước ngoài chưa phải là điều đáng lo vì nó chỉ bằng 39.8% GDP.
Tuy nhiên, nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp tăng mạnh những năm gần đây; điều này mới là đáng lo ngại vì thường chúng là nợ trung hạn chứ không phải nợ dài hạn của chính phủ.
Bảng 3. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
Năm 2010
|
Ước tính 2011 theo mức tăng 15% của năm trước
|
|
Tổng nợ nước ngoài
|
42.2
|
48.5
|
Nợ công theo định nghĩa VN
|
32.2
|
37.0
|
Nợ chính phủ
|
27.6
|
31.7
|
Nợ chính phủ bảo lãnh
|
4.6
|
5.3
|
Nợ doanh nghiệp
|
10
|
11.5
|
Tổng nợ công
|
128.9
|
Nợ ngân hàng nội địa
So với các nước trong khu vực, tín dụng từ nguồn hệ thống tín dụng nội địa ở Việt Nam là rất cao; tỷ lệ tín dụng lên tới 121% GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam còn ở mức thấp (bảng 4). Dựa vào tín dụng thay vì vốn tự có để phát triển kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến chỗ bong bóng. Tỷ lệ tín dụng cao so với GDP và cụ thể hóa trong Bảng 2 ở tỷ lệ vốn vay trên vốn tự có đã nói rõ lên điều này.
Bảng 4. Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng trên GDP
Tổng dư nợ nội địa trên GDP
|
|
Trung Quốc
|
145.9
|
Ấn độ
|
75.1
|
Indonesia
|
38.5
|
Mã Lai
|
132.1
|
Philippines
|
51.8
|
Singapore
|
93.6
|
Thái Lan
|
150.0
|
Việt Nam
|
120.9
|
Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Tổng nợ của DNNN được tính là 62,1 tỷ USD (Bảng 1) trong khi theo báo cáo của Việt Nam với Ngân hàng châu Á (ADB) và IMF, DNNN chỉ vay từ hệ thống tín dụng là 24,5 tỷ USD (490.000 tỷ đồng ở bảng 5). Vậy thì 37,6 tỷ phải là từ trái phiếu hoặc nợ nước ngoài.
Theo Bản tin số 7 của Bộ tài chính, nợ nước ngoài của DNNN cao nhất là 11,5 tỷ USD (vì con số này gồm cả nợ của doanh nghiệp tư nhân). Vậy thì 26,5 tỷ USD còn lại trong nợ của DNNN ở đâu mà ra. Có lẽ NHNN đã tính sai nợ tín dụng DNNN vào nợ tư nhân không chừng?
Bảng 5. Dư nợ của hệ thống ngân hàng, 2011
Tỷ đồng
|
Tỷ US
|
Tỷ lệ
|
|
Tổng tín dụng của hệ thống ngân hàng
|
3,063,000
|
147.1
|
100%
|
Chính phủ vay
|
232,000
|
11.1
|
8%
|
DNNN vay
|
490,000
|
23.5
|
16%
|
DN tư nhân& hộ gia đình vay
|
2,341,000
|
112.4
|
76%
|
Nguồn: ADB Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Phân phối tín dụng trong hệ thống ngân hàng
Có thể dựa vào số liệu từ NHNN và Tổng cục Thống kê để thấy rằng, phân phối tín dụng trong hệ thống không phản ánh hoạt động chung của nền kinh tế.Nông nghiệp, thủy sản, lâm sản chỉ được hưởng tỷ lệ tín dụng bằng gần ½ tỷ lệ đóng góp vào nền kinh tế. Ngược lại xây dựng được gần gấp đôi. Nhưng hầu hết tín dụng (67%) là chui vào khu vực thương mại và dịch vụ, gấp gần gấp hai lần so với mức đóng góp của chúng vào nền kinh tế.
Hình như đây là lần đầu tiên NHNN công bố số liệu như thế này. Thật ra chúng cần được công bố thường xuyên vì vấn đề được đặt ra là hệ thống ngân hàng phục vụ ai trong nền kinh tế.
Bảng 6. Phân phối dư nợ tín tụng trong nền kinh tế, tháng 7 năm 2012
Tỷ đồng
|
Tỷ lệ
|
Tỷ lệ hoạt động kinh tế trên GDP
|
|
Tổng tiền gửi
|
2,693,667
|
||
Dư nợ trên tổng tiền gửi
|
81%
|
||
Dư nợ cho hoạt động kinh tế
|
2,176,073
|
100%
|
100%
|
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
|
257,829
|
12%
|
21%
|
Công nghiệp, xây dựng
|
1,160,634
|
53%
|
42%
|
Công nghiệp
|
894,013
|
41%
|
35%
|
Xây dựng
|
266,621
|
12%
|
7%
|
Thương mại, vận tải, viễn thông
|
757,610
|
35%
|
19%
|
Thương mại
|
610,184
|
28%
|
14%
|
Vận tải, viễn thông
|
147,426
|
7%
|
4%
|
Dịch vụ khác
|
703,989
|
32%
|
19%
|
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Để kết luận, có thể tóm tắt vài điều nhận xét sau:
a) Kinh tế Việt Nam phát triển bong bóng vì chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng, bằng cách bơm tiền quá lố. Điều này đưa đến lạm phát và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp khi bắt buộc phải thực hiện chính sách chống lạm phát.
b) Tín dụng của hệ thống ngân hàng được phân phối chủ yếu (67%) vào những hoạt động dịch vụ không rõ ràng. Những hoạt động này có thể là những hoạt động đầy rủi ro như chứng khoán, mua địa ốc (khác hoàn toàn với hoạt động xây dựng tạo ra việc làm), lập ngân hàng, v.v. Có thể nói dường như hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động không nhằm phục vụ sản xuất.
c) Để có thể cải cách và bốc thuốc đúng lúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần minh bạch số liệu thường xuyên, không thể để tình trạng như hiện nay như đã vào cuối năm 2012 mà chỉ mới biết số liệu năm 2011, thậm chí năm 2010. Số liệu tài chính tín dụng cần được xuất bản hàng quí cho mọi người sử dụng.
TB KTSG/ Vũ QuangViệt
Chứng khoán Việt Nam
Từ đầu năm đến nay, thị trường chứng khoán VN có những lúc có thể kiếm lời, vài thời điểm chỉ số Vn-index tăng liên tục, có vẻ như muốn phục hồi.
Những lúc đó, tôi lại muốn quay trở lại để làm giàu. Thế nhưng, với vài thứ lý thuyết hỗn độn trong đầu, tôi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, thị trường phục hồi nhờ điều gì?
Tiếc là câu trả lời không thể có. Người ta ví thị trường chứng khoán như một phong vũ biểu của nền kinh tế, điều đó cũng không có gì sai. Nền kinh tế VN ở thời điểm này, nếu nói ngắn gọn thì "vẫn đang trên đường xuống đáy". Vậy thì thị trường phục hồi dựa vào đâu?
Thôi vậy, ngồi nhìn vẫn tốt hơn, ít nhất là hết năm 2013.
Những lúc đó, tôi lại muốn quay trở lại để làm giàu. Thế nhưng, với vài thứ lý thuyết hỗn độn trong đầu, tôi đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, thị trường phục hồi nhờ điều gì?
Tiếc là câu trả lời không thể có. Người ta ví thị trường chứng khoán như một phong vũ biểu của nền kinh tế, điều đó cũng không có gì sai. Nền kinh tế VN ở thời điểm này, nếu nói ngắn gọn thì "vẫn đang trên đường xuống đáy". Vậy thì thị trường phục hồi dựa vào đâu?
Thôi vậy, ngồi nhìn vẫn tốt hơn, ít nhất là hết năm 2013.
Nợ công: cần minh bạch, rõ ràng
Tớ đọc nhiêu bài về nợ công VN và các nước, thu thập được một số lượng kha khá tài liệu về đề tài này nhưng chưa có cơ hội và thời gian để viết. Hôm nào rảnh sẽ làm một vài bài.
(Tuổi trẻ) Cần có những giải pháp xử lý
trước khi quá muộn. Đó là khuyến cáo của nhiều chuyên gia tại hội thảo
khoa học “Khủng hoảng nợ công ở Liên minh châu Âu và những vấn đề gợi mở
đối với VN” do Viện hàn lâm Khoa học VN tổ chức ngày 25-4. Các đại biểu cũng đề nghị để khỏi bị động trong việc xử lý, VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công.
Thế giới nói 128,9 tỉ USD, VN tính 66,8 tỉ USD
Dẫn tính toán của chuyên gia
Liên Hiệp Quốc, trao đổi với Tuổi Trẻ bên lề hội thảo, TS Nguyễn Trọng
Hậu, Đại học Almamer, Ba Lan, cho biết nếu theo chuẩn quốc tế thì nợ
công VN lên đến khoảng 128 tỉ USD, bằng khoảng 106% GDP năm 2011 – gần
gấp đôi mức VN công bố chính thức.
TS Lưu Bích Hồ, nguyên viện
trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch – đầu tư), cũng đồng tình
và chỉ ra rằng năm 2011, ước tính theo quốc tế thì nợ công của VN là
128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP. Nhưng con số mà Bộ Tài chính công bố
chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.
Các nhà khoa học cũng đồng tình
với nhận định của TS Hồ khi cho rằng cái khó nhất nói về thực trạng nợ
công của VN là thiếu số liệu và không đủ tin cậy. Thời gian cập nhật nợ
công của các nước là hằng quý, còn ở VN Bộ Tài chính mới chỉ công bố đến
năm 2010 và ước tính đến năm 2011 thôi.

So
sánh mức nợ công, nợ nước ngoài của Việt Nam với một số nước ASEAN
((tính đến ngày 31-12-2011)) – Nguồn: Vụ tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch
nước – Đồ họa: V.CƯỜNG
Box 1. “Cứ thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cứ vay nợ không sử dụng hiệu quả chắc chắn khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra”
PGS.TS Nguyễn An Hà
Bày tỏ quan điểm cá
nhân, ThS Đinh Mai Long – Vụ Tổng hợp, Văn phòng Chủ tịch nước – nêu
trong 10 năm trở lại đây, nợ công tại VN tăng nhanh một cách đáng lo
ngại và có cơ cấu kém bền vững, bị tác động mạnh của những cú sốc từ nền
kinh tế thế giới, đặc biệt là các cú sốc tỉ giá. Cơ cấu đồng tiền vay
nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là các đồng tiền chủ chốt như JPY chiếm
khoảng 39%, bằng SDR khoảng 27%, bằng USD khoảng 22%, bằng EUR khoảng
9%. Đối với vay nước ngoài của doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước – DNNN) được Chính phủ bảo lãnh) chủ yếu tập trung vào USD (chiếm
từ 70-80%). Kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6-2011, ba đồng tiền chủ
chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của VN đã lên giá lần
lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cho thấy gánh nặng nợ
nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép
đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ.
Mặt khác, ông Long
cũng lưu ý là vay nợ từ Trung Quốc gia tăng nhanh trong mấy năm gần đây –
khoảng 1,2 tỉ USD. Ngoài ra, tốc độ gia tăng nợ công khoảng 15%/năm
đang dần “bắt kịp” tốc độ tăng thu ngân sách khoảng 17-21%, có nghĩa là
vài ba năm nữa nguồn tăng thu chỉ đủ để bù trả nợ – ông Long nhấn mạnh.
Nợ công của VN năm 2011
Nguồn: Vũ Quang Việt, “Nợ công, nợ ngân hàng VN được hé mở”, tạp chí Diễn Ðàn, 25-11-2011
|
Bỏ qua nợ của DNNN
Nợ công của VN vì
sao lại chỉ bằng một nửa so với cách tính của thế giới? TS Nguyễn Trọng
Hậu cho rằng thế giới có tiêu chí nợ công chung, họ có năm thành tố thì
VN chỉ có ba. Có hai yếu tố chưa được tính vào nợ công của VN đó là nợ
của DNNN và khoản Nhà nước vay của quỹ hưu trí. Ông Hậu cho rằng với
cách tính nợ công của VN thì thực tế những khoản nợ nước ngoài cả tỉ USD
như của Vinashin không được tính vào nợ công trong khi các nước, doanh
nghiệp nào có vốn nhà nước dù chỉ một vài phần trăm, khi vay nước ngoài
cũng phải tính vào. Một khoản nữa VN chưa tính vào nợ công là khoản tiền
Nhà nước vay của quỹ hưu trí (nếu có), vì về thực chất đây cũng là nợ
của dân.
Cũng theo ông Hậu,
kinh nghiệm hiện nay cần cảnh giác là rất nhiều khoản nợ tư cũng có thể
biến thành nợ công. Như hiện nay có rất nhiều “đại gia” bất động sản có
thể vay nợ nước ngoài. Đây không phải nợ công nhưng khi các “đại gia”
phát triển đến quy mô rất lớn mà nếu để các doanh nghiệp này đổ vỡ có
thể kéo theo hàng loạt hệ lụy cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp,
các “đại gia” không trả được nợ, Nhà nước sẽ phải đứng ra cứu. Như thế
cũng tạo nguy cơ rất lớn khiến phình nợ công rất nhanh.
Còn ông Long thì
cho rằng trên thực tế, dù được hay không được Chính phủ bảo lãnh nhưng
nếu những DNNN không thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ thì Chính phủ
với vai trò chủ sở hữu vẫn phải gánh nợ cho các DNNN này.
Vinashin là một
trong những tập đoàn kinh tế làm ăn thua lỗ mà Chính phủ phải trả nợ
thay các khoản vay quốc tế. Trong ảnh là mô hình một con tàu được trưng
bày trong trụ sở của Vinashin + Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Cần tính theo chuẩn quốc tế
Ông Hậu khuyến cáo
VN cần theo thông lệ quốc tế trong cách tính nợ công bởi để đến khi “cái
kim trong bọc lâu ngày lộ ra” thì khi đó ứng xử rất bị động. Đặc biệt,
ông Hậu khuyến cáo nguy cơ vay nợ nhiều nhưng nếu sử dụng không hiệu quả
thì rất nguy hiểm. Trong khi đó, nhiều khoản vay nợ của VN được phân bổ
bởi Nhà nước lại có hiệu quả sử dụng không cao…
PGS.TS Nguyễn An Hà
– Viện Nghiên cứu châu Âu – cho rằng với tình hình nợ công và quản lý
nợ công của VN có thể thấy rằng nền kinh tế VN hiện đang có một số đặc
điểm giống với các nước PIIGS (các nước châu Âu có tỉ lệ nợ cao, bao gồm
Hi Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ
công. Đó là tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2007 đến nay, lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên
8% kể từ năm 2006-2011… Do vậy, cần có những giải pháp xử lý trước khi
quá muộn.
Theo GS.TS Đỗ Hoài
Nam – chủ tịch Hội đồng Học viện Khoa học xã hội VN, điều quan trọng là
tìm ra được nguyên nhân của tình trạng đáng báo động về nợ công ở VN.
“Phải chăng đó là vấn đề liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế quá
nóng, dựa quá nhiều vào vốn, phát triển theo chiều rộng. Điều đó đúng
nhưng đã đủ chưa. Người ta còn nói mô hình tăng trưởng dựa vào DNNN làm
ăn kém hiệu quả. Gần như là con nợ lớn nhất của nợ công. Thế thì chúng
ta sẽ phải bắt đầu từ đâu?” – ông Nam băn khoăn.
Ông Nguyễn An Hà
cũng cho rằng nợ công là nguồn lực quan trọng nhưng chất lượng sử dụng
nợ còn quan trọng hơn. Rút ra các bài học từ nghiên cứu, ông Hà cho rằng
con số tuyệt đối nợ công cần minh bạch, rõ ràng. Trong hội nhập quốc
tế, VN phải theo luật chơi quốc tế. Bởi theo ông Hà, các khoản vay đến
hạn thì nước ngoài họ xiết nợ theo luật quốc tế. VN sẽ khó lờ đi được
bởi ông Hà ví dụ trường hợp Vinashin, khi phải trả lãi, ban lãnh đạo mới
của Vinashin lờ đi, nhưng chỉ cần các tổ chức xếp hạng đưa định mức tín
nhiệm của VN xuống một bậc, thành B- lãi suất cho các khoản vay đến VN
tăng, thiệt hại có thể lớn hơn nhiều.
Box 2. Đầu tư công cho nông nghiệp, y tế, giáo dục giảm
Ngày
25-4, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (Bộ Kế
hoạch – đầu tư) cùng Đại sứ quán Ireland đã tổ chức hội thảo đánh giá
hiệu quả đầu tư công. Theo báo cáo nghiên cứu, tỉ trọng đầu tư công của
VN còn bất cập. Ví dụ, trong giai đoạn 2006-2010, đầu tư công cho nông
lâm nghiệp và thủy sản chiếm 6,51% trong tổng đầu tư công thì đến năm
2011 chỉ còn 5,6%; giáo dục – đào tạo giai đoạn 2006-2010 là 3,1% thì
năm 2011 chỉ còn 2,93%; y tế và hoạt động trợ cấp xã hội từ 4,62% xuống
4,05%. Trong khi đó, đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế lại theo xu hướng
tăng, ngay khách sạn nhà hàng cũng tăng từ 0,76% giai đoạn 2006-2010 lên
mức 1,39% vào năm 2011. Cao nhất là vận tải, kho bãi, thông tin –
truyền thông với tỉ lệ 22,95% lên 23,3%…
Báo
cáo cũng khẳng định đầu tư công đã tác động tích cực tới tăng trưởng
của VN nhưng chỉ tác động trong khoảng thời gian năm năm, sau đó giảm
dần. Trong dài hạn, đầu tư tư nhân mới là yếu tố tác động mạnh nhất đến
tăng trưởng kinh tế VN.
Quý bà bị bắt
Bệnh viện Vũ Anh nhiều người biết, như là bệnh viện tư nhân có chất lượng tốt. Quý bà Tuyết Nga, chủ bệnh viện này có vài lần lên báo, khoe sự thành đạt thì tôi không để ý, nhưng vẫn luôn nghĩ là bà ấy giỏi giang, thành đạt, một phụ nữ hiếm thấy.
Thế nhưng, tin bà bị bắt thật bất ngờ, lý do bị bắt không khác những lần bắt các đại gia là mấy, nợ ngân hàng và lừa đảo. Đến đây, tôi là có suy nghĩ rằng, những người như chúng tôi, là những nhân viên ngân hàng, là một phần của những phi vụ như thế.
Trách nhiệm của ai rồi sẽ được làm rõ, tuy nhiên, nếu nhân viên ngân hàng làm tốt công việc, đã không có những vụ án như thế này. Hàng chục người sẽ vướng vòng lao lý, hàng trăm người mất tài sản và rất nhiều người tan vỡ gia đình...
Thế nhưng, tin bà bị bắt thật bất ngờ, lý do bị bắt không khác những lần bắt các đại gia là mấy, nợ ngân hàng và lừa đảo. Đến đây, tôi là có suy nghĩ rằng, những người như chúng tôi, là những nhân viên ngân hàng, là một phần của những phi vụ như thế.
Trách nhiệm của ai rồi sẽ được làm rõ, tuy nhiên, nếu nhân viên ngân hàng làm tốt công việc, đã không có những vụ án như thế này. Hàng chục người sẽ vướng vòng lao lý, hàng trăm người mất tài sản và rất nhiều người tan vỡ gia đình...
Saturday, April 27, 2013
Kết luận thanh tra NHNN tại Sacombank
Kết luận thanh tra NHNN được công bố tại Đại hội cổ đông Sacombank vừa qua, được Petrotimes tường thuật. Có thể nghĩ rằng đây là cuộc thanh tra thông thường, tuy nhiên những dấu hỏi to tướng còn để lại:
1. Công bố của Sacombank chỉ thấy đề cập chủ yếu đến tình hình các khoản vay của ông chủ cũ (Gia đình Đặng Văn Thành), vì sao thế?
2. Thời điểm đổi chủ tại Sacombank, một loạt các giao dịch cổ phiếu của ngân hàng này có nghi ngờ của sự không minh bạch, mà UBCKNN sau đó có ra vài án phạt nhẹ hều khi mọi thứ đã an bài. Thanh tra NHNN vào cuộc sau đó với sự chờ đợi của dư luận là làm rõ ai đã mua, tiền đâu để mua chứ không phải những gì được công bố vừa qua. Có lẽ những điều dư luận chờ đợi sẽ mãi mãi không có câu trả lời.
3. Khi công bố tại ĐHCĐ lần này, gia đình Đặng Văn Thành đã không còn ai trong HĐQT, cả các đệ tử như Huy TGĐ, có nghĩa là chỉ công bố cho nhau nghe (các ông chủ mới), mà thực tế thì các ông chủ mới không cần nghe những kết luận này vì họ biết rõ hơn thế.
4. Có thể suy nghĩ rằng, sau khi hất cẳng Đặng Văn Thành, nhóm chủ mới nhờ Thanh tra NHNN vào thanh tra, làm rõ các khoản vay của chủ cũ, để lại bằng chứng rõ ràng để dễ dàng xử lý. Đồng thời cũng để cho dư luận biết rằng, những ông chủ mới đã làm việc công tâm, rõ ràng, cái gì của chế độ trước là trách nhiệm của những người cũ, họ phải giải quyết, án tại hồ sơ mà. Kinh!
Có thể cũng để nói rằng, chủ mới là những người vì ngân hàng, chứ không vì lợi ích cá nhân, vì một nhóm lợi ích nào đó thâu tóm... Kinh!
5. Đây có thể cũng là để có cơ sở hợp nhất Eximbank với Samcombank mà người bình thường chẳng hiểu vì sao phải làm việc đó. Thế mới thấy Interest Group thật là kinh. Không hi vọng gì rồi, họ thao túng được tất cả.
1. Công bố của Sacombank chỉ thấy đề cập chủ yếu đến tình hình các khoản vay của ông chủ cũ (Gia đình Đặng Văn Thành), vì sao thế?
2. Thời điểm đổi chủ tại Sacombank, một loạt các giao dịch cổ phiếu của ngân hàng này có nghi ngờ của sự không minh bạch, mà UBCKNN sau đó có ra vài án phạt nhẹ hều khi mọi thứ đã an bài. Thanh tra NHNN vào cuộc sau đó với sự chờ đợi của dư luận là làm rõ ai đã mua, tiền đâu để mua chứ không phải những gì được công bố vừa qua. Có lẽ những điều dư luận chờ đợi sẽ mãi mãi không có câu trả lời.
3. Khi công bố tại ĐHCĐ lần này, gia đình Đặng Văn Thành đã không còn ai trong HĐQT, cả các đệ tử như Huy TGĐ, có nghĩa là chỉ công bố cho nhau nghe (các ông chủ mới), mà thực tế thì các ông chủ mới không cần nghe những kết luận này vì họ biết rõ hơn thế.
4. Có thể suy nghĩ rằng, sau khi hất cẳng Đặng Văn Thành, nhóm chủ mới nhờ Thanh tra NHNN vào thanh tra, làm rõ các khoản vay của chủ cũ, để lại bằng chứng rõ ràng để dễ dàng xử lý. Đồng thời cũng để cho dư luận biết rằng, những ông chủ mới đã làm việc công tâm, rõ ràng, cái gì của chế độ trước là trách nhiệm của những người cũ, họ phải giải quyết, án tại hồ sơ mà. Kinh!
Có thể cũng để nói rằng, chủ mới là những người vì ngân hàng, chứ không vì lợi ích cá nhân, vì một nhóm lợi ích nào đó thâu tóm... Kinh!
5. Đây có thể cũng là để có cơ sở hợp nhất Eximbank với Samcombank mà người bình thường chẳng hiểu vì sao phải làm việc đó. Thế mới thấy Interest Group thật là kinh. Không hi vọng gì rồi, họ thao túng được tất cả.
Thursday, April 25, 2013
Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội Vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế ?
Đây là bài viết đáng đọc của Báo thanh niên, khi nào có thời gian sẽ đọc bảng báo cáo của Hiệp hội Vàng thế giới xem thực hư thế nào.
(Thanhnien) Những bí mật của thị trường vàng Việt Nam đã được “kể” ra từ những con số thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới.
Lượng vàng VN nhập khẩu

Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới - Đồ họa: Hồng Sơn
Hàng tỉ USD nhập vàng lậu ?
Theo Hiệp hội Vàng thế giới, chỉ trong hai năm 2011 và 2012, tổng nhu cầu vàng VN đã lên đến gần chục tỉ USD. Trong đó, giá trị vàng nữ trang nhập đã lên đến con số gần 1,3 tỉ USD. Cụ thể, lượng vàng nữ trang VN nhập khẩu năm 2011 là 13 tấn, trị giá 634 triệu USD. Sang năm 2012, ngoại tệ nhập vàng nữ trang còn nhiều hơn. Quý 1 nhập 5 tấn, trị giá 269 triệu USD, quý 2 nhập 3 tấn, trị giá 156 triệu USD, quý 3 nhập 2,5 tấn trị giá 130 triệu USD và quý 4 là 2 tấn, trị giá 111 triệu USD. Tổng cộng, năm 2012 VN đã nhập 12,5 tấn, trị giá 666 triệu USD. Chỉ tính riêng vàng nữ trang, trong 2 năm qua VN đã bỏ ra gần 1,3 tỉ USD để nhập khẩu. Đáng nói, cho đến nay NHNN chưa cấp phép cho bất cứ đơn vị nào nhập vàng nữ trang và nếu đúng thì số vàng nữ trang với khối lượng lên tới trên 25,5 tấn này là nhập lậu hoàn toàn.
Cũng theo thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, trong 2 năm này số lượng vàng thỏi nhập vào VN còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, trong năm 2011 vàng thỏi nhập vào VN tổng cộng là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD. Năm 2012, con số này cũng không kém với tổng cộng là 75,2 tấn, tương đương trên 4 tỉ USD. Riêng với vàng thỏi, trong năm 2011 và 2012, NHNN cũng không cấp phép công ty nào được nhập loại vàng này. Vì vậy, vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo 2 con đường. Thứ nhất là NHNN cho phép các NHTM mua trạng thái nước ngoài và thứ hai là vàng thỏi nhập lậu.
Những con số trên nói lên rằng, vàng lậu đã, đang và sẽ tiếp tục tràn vào VN. Đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá trong suốt thời gian qua. Điều này hợp lý và lý giải vì sao cầu ngoại tệ “chính thống” của nền kinh tế mấy năm nay không tăng, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh nhưng “sóng tỷ giá” vẫn thỉnh thoảng lại nổi lên. Ngay tại thời điểm này, khi khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục, trên 6 triệu đồng/lượng, thì tỷ giá ngoài thị trường tự do lại bị hun nóng một cách đáng ngờ.
Hợp pháp hóa vàng lậu ?
Với những biến động tại thị trường vàng, các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào VN. Bởi như phân tích trên, ngoài “chui” vào kênh vàng nữ trang, vàng lậu còn có thể được dập thành vàng miếng giả thương hiệu SJC, vàng nữ trang dưới tên gọi phi SJC. NHNN đã chính thức quản lý việc dập vàng miếng thương hiệu độc quyền SJC nên nếu muốn hợp pháp hóa số vàng lậu chỉ có con đường duy nhất là xuất ra rồi nhập trở lại. Và cũng trùng hợp NHNN “bỗng dưng” (nói bỗng dưng là bởi trước đó, NHNN công bố có khoảng 500 tấn vàng đang nằm trong dân và lên phương án huy động. Với lượng vàng trong dân nhiều như vậy, không có lý do gì để nhập vàng) cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập vàng miếng SJC. Sự “trùng hợp” này rất dễ tạo điều kiện cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào để hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi khủng. Nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD.
Nhưng mọi chuyện không dừng ở đó. Số vàng lậu nhập vào VN trong 2 năm qua,
như thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, là 25,5 tấn (chỉ tính riêng vàng nữ trang). Đợt “tạm xuất, tái nhập” vừa rồi được 11 tấn vàng và đã được NHNN bán hết sau phiên đấu thầu ngày hôm qua. Như vậy, còn khoảng gần 15 tấn vàng lậu vẫn đang “ẩn” trên thị trường chờ cơ hội hợp pháp hóa. Câu hỏi đặt ra là, liệu có xảy ra thêm một cuộc tạm xuất – tái nhập để chuyển thể về vàng miếng SJC một cách chính danh nữa hay không? Câu trả lời vẫn phải chờ, nhưng những biểu hiện của thị trường vàng hiện nay đang cho thấy điều đó hoàn toàn có thể tiếp tục được thực hiện. Cụ thể, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới (lý do lớn nhất để phải bình ổn) đang ở mức kỷ lục, khoảng 6 triệu đồng/lượng, lượng vàng NHNN nhập khẩu trước đó đã bán hết sau 11 phiên đấu thầu… Khả năng tạo những cơn khan hiếm giả gây áp lực xuất – nhập để hợp pháp hóa vàng lậu là rất lớn.
Giá vàng VN trong quá khứ có cao có thấp hơn giá thế giới, nhưng mấy năm trở lại đây luôn cao hơn vàng thế giới rất nhiều. Trong quá khứ, VN có xuất khẩu vàng, nhưng mấy năm gần đây vàng xuất hầu như không có mà vàng nhập thì rất lớn. Đặc biệt, là nhập lậu. Đây là kết quả từ chính sách quản lý thị trường vàng yếu kém, tạo cơ hội cho các đơn vị, giới đầu nậu, giới đầu cơ… thao túng, trục lợi từ ngay trên cơ chế.
Nguyên Hằng
(Thanhnien) Những bí mật của thị trường vàng Việt Nam đã được “kể” ra từ những con số thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới.
Lượng vàng VN nhập khẩu

Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới - Đồ họa: Hồng Sơn
Hàng tỉ USD nhập vàng lậu ?
Theo Hiệp hội Vàng thế giới, chỉ trong hai năm 2011 và 2012, tổng nhu cầu vàng VN đã lên đến gần chục tỉ USD. Trong đó, giá trị vàng nữ trang nhập đã lên đến con số gần 1,3 tỉ USD. Cụ thể, lượng vàng nữ trang VN nhập khẩu năm 2011 là 13 tấn, trị giá 634 triệu USD. Sang năm 2012, ngoại tệ nhập vàng nữ trang còn nhiều hơn. Quý 1 nhập 5 tấn, trị giá 269 triệu USD, quý 2 nhập 3 tấn, trị giá 156 triệu USD, quý 3 nhập 2,5 tấn trị giá 130 triệu USD và quý 4 là 2 tấn, trị giá 111 triệu USD. Tổng cộng, năm 2012 VN đã nhập 12,5 tấn, trị giá 666 triệu USD. Chỉ tính riêng vàng nữ trang, trong 2 năm qua VN đã bỏ ra gần 1,3 tỉ USD để nhập khẩu. Đáng nói, cho đến nay NHNN chưa cấp phép cho bất cứ đơn vị nào nhập vàng nữ trang và nếu đúng thì số vàng nữ trang với khối lượng lên tới trên 25,5 tấn này là nhập lậu hoàn toàn.

Cũng theo thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, trong 2 năm này số lượng vàng thỏi nhập vào VN còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, trong năm 2011 vàng thỏi nhập vào VN tổng cộng là 87,8 tấn, trị giá 4,561 tỉ USD. Năm 2012, con số này cũng không kém với tổng cộng là 75,2 tấn, tương đương trên 4 tỉ USD. Riêng với vàng thỏi, trong năm 2011 và 2012, NHNN cũng không cấp phép công ty nào được nhập loại vàng này. Vì vậy, vàng thỏi chỉ có thể vào thị trường nội địa theo 2 con đường. Thứ nhất là NHNN cho phép các NHTM mua trạng thái nước ngoài và thứ hai là vàng thỏi nhập lậu.
Những con số trên nói lên rằng, vàng lậu đã, đang và sẽ tiếp tục tràn vào VN. Đây cũng chính là nguyên nhân gây biến động tỷ giá trong suốt thời gian qua. Điều này hợp lý và lý giải vì sao cầu ngoại tệ “chính thống” của nền kinh tế mấy năm nay không tăng, dự trữ ngoại tệ tăng mạnh nhưng “sóng tỷ giá” vẫn thỉnh thoảng lại nổi lên. Ngay tại thời điểm này, khi khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới bị đẩy cao lên mức kỷ lục, trên 6 triệu đồng/lượng, thì tỷ giá ngoài thị trường tự do lại bị hun nóng một cách đáng ngờ.
Hợp pháp hóa vàng lậu ?
Với những biến động tại thị trường vàng, các chính sách xuất – nhập và cuộc chuyển đổi vàng phi SJC sang SJC trong thời gian qua hé lộ khả năng đã có tình trạng trục lợi chính sách để “rửa” số lượng vàng lậu khổng lồ đã tràn vào VN. Bởi như phân tích trên, ngoài “chui” vào kênh vàng nữ trang, vàng lậu còn có thể được dập thành vàng miếng giả thương hiệu SJC, vàng nữ trang dưới tên gọi phi SJC. NHNN đã chính thức quản lý việc dập vàng miếng thương hiệu độc quyền SJC nên nếu muốn hợp pháp hóa số vàng lậu chỉ có con đường duy nhất là xuất ra rồi nhập trở lại. Và cũng trùng hợp NHNN “bỗng dưng” (nói bỗng dưng là bởi trước đó, NHNN công bố có khoảng 500 tấn vàng đang nằm trong dân và lên phương án huy động. Với lượng vàng trong dân nhiều như vậy, không có lý do gì để nhập vàng) cho phép tạm xuất vàng phi SJC để tái nhập 11 tấn vàng khối về dập vàng miếng SJC. Sự “trùng hợp” này rất dễ tạo điều kiện cho vàng lậu được đưa vào diện phi SJC, sau đó xin phép xuất ra để nhập vào để hợp thức hóa thành vàng chính ngạch. Hay nói cách khác là “rửa vàng” kiếm lợi khủng. Nếu chỉ lấy mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới trung bình là 3 triệu đồng/lượng thì với 25,5 tấn vàng nhập lậu, lợi nhuận từ vàng lậu lên cả trăm triệu USD.
Nhưng mọi chuyện không dừng ở đó. Số vàng lậu nhập vào VN trong 2 năm qua,

như thống kê của Hiệp hội Vàng thế giới, là 25,5 tấn (chỉ tính riêng vàng nữ trang). Đợt “tạm xuất, tái nhập” vừa rồi được 11 tấn vàng và đã được NHNN bán hết sau phiên đấu thầu ngày hôm qua. Như vậy, còn khoảng gần 15 tấn vàng lậu vẫn đang “ẩn” trên thị trường chờ cơ hội hợp pháp hóa. Câu hỏi đặt ra là, liệu có xảy ra thêm một cuộc tạm xuất – tái nhập để chuyển thể về vàng miếng SJC một cách chính danh nữa hay không? Câu trả lời vẫn phải chờ, nhưng những biểu hiện của thị trường vàng hiện nay đang cho thấy điều đó hoàn toàn có thể tiếp tục được thực hiện. Cụ thể, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới (lý do lớn nhất để phải bình ổn) đang ở mức kỷ lục, khoảng 6 triệu đồng/lượng, lượng vàng NHNN nhập khẩu trước đó đã bán hết sau 11 phiên đấu thầu… Khả năng tạo những cơn khan hiếm giả gây áp lực xuất – nhập để hợp pháp hóa vàng lậu là rất lớn.
Giá vàng VN trong quá khứ có cao có thấp hơn giá thế giới, nhưng mấy năm trở lại đây luôn cao hơn vàng thế giới rất nhiều. Trong quá khứ, VN có xuất khẩu vàng, nhưng mấy năm gần đây vàng xuất hầu như không có mà vàng nhập thì rất lớn. Đặc biệt, là nhập lậu. Đây là kết quả từ chính sách quản lý thị trường vàng yếu kém, tạo cơ hội cho các đơn vị, giới đầu nậu, giới đầu cơ… thao túng, trục lợi từ ngay trên cơ chế.
Vàng là thủ phạm làm tăng giá USD: Tiến sĩ Cao Sĩ Kiêm, nguyên Thống đốc NHNN cũng khẳng định, diễn biến kinh tế vĩ mô chưa cho thấy áp lực căng thẳng quá lớn về đồng USD. Nhưng vừa qua, sự nóng lên của đồng ngoại tệ này chính do các đầu nậu tranh thủ nhập vàng đế “kiếm lời”. Ở các địa bàn như TP.HCM, Hà Nội nhu cầu tiêu thụ vàng bao giờ cũng rất lớn, với mức chênh lệch giá như vừa qua, dễ hiểu giới buôn lậu vàng chắc chắn đã vào cuộc. Một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trên thị trường tài chính cũng nhận định, trong tình hình khó khăn hiện nay, cầu USD cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự chưa cao, trong khi đó nhập siêu quý 1 không quá lớn để gây áp lực lên cán cân thương mại, thì có thể thấy nhiều khả năng vàng chính là thủ phạm khiến USD đã tăng giá so với VND.Anh Vũ (ghi) |
Cứu thị trường bất động sản: vì sao và vì ai?
(TBKTSG) Một cuộc “tranh luận” được cho là sôi nổi về
việc có nên cứu thị trường bất động sản (BĐS) hay không đang diễn ra, những
quan điểm đồng thuận với gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
dựa trên 04 nhóm lập luận chính: thị trường BĐS sụp đổ có thể kéo theo sự phá
sản của các ngân hàng và hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, thị trường BĐS đóng góp
lớn vào GDP của quốc gia, giải quyết một lực lượng lớn lao động và gói cứu trợ
là giúp người mua nhà chứ không phải cứu doanh nghiệp. Chúng ta thử phân tích
những lập luận này có lý đến mức nào?
Hệ
thống ngân hàng sẽ sụp đổ?
“Lo bò trắng
răng” có lẽ là sự đúc kết chính xác nhất để nói về sự lo lắng rằng thị trường
BĐS “rơi” có thể làm hệ thống ngân hàng sụp đổ ở Việt Nam và trong thời điểm này. Xin
khẳng định trước để giải thích sau rằng, các doanh nghiệp BĐS không phải lo
thay việc của các ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp BĐS có “ra đi”, sẽ chẳng ngân
hàng nào phá sản dù hiện tại nhiều ngân hàng cũng đang là những “xác chết”.
Thứ nhất, dù có
tin hay không, cũng cần những con số để phân tích, rằng tình hình nợ xấu của
các ngân hàng hiện nay như thế nào.
Nợ xấu của hệ thống các TCTD tại các địa phương đến quí 1/2013[1]
Địa phương
|
Tổng dư nợ (tỷ đồng)
|
Nợ xấu (%)
|
Tp.HCM
|
850.769
|
5,98
|
Hà Nội
|
616.600
|
6,29
|
Đà Nẵng
|
50.739
|
4,22
|
Quảng Ngãi
|
24.239
|
1,46
|
Bình Dương
|
53.686
|
2,13
|
Đồng Nai
|
67.684
|
2,36
|
12 tỉnh khu vực Tây Bắc
|
108.676
|
1,43
|
Những con số này
có vẻ khá phù hợp với công bố mới đây của NHNN rằng, tỷ lệ nợ xấu vừa giảm từ
8,8% xuống còn 6% hồi quí 1/2013, thậm chí còn thấp hơn. Trong đó, dư nợ cho
vay BĐS tạm tính theo con số của Tp.HCM (cùng với Hà Nội là những địa phương chắc
chắn có tỷ lệ cho vay BĐS cao nhất) là 10,4% tổng dư nợ. Trong 10,4% tổng dư nợ
này chỉ có 6,13%[2] là nợ
xấu. Những con số làm “an lòng” cả những người bi quan nhất.
Thứ hai, NHNN có
vẻ như chấp nhận chịu trận (vì không có bất kỳ giải thích nào) với vô vàn những
lời chỉ trích vì nghi ngờ về kết quả phi thường của việc giảm nợ xấu từ 8,8%
xuống 6% vừa qua. Tuy nhiên, sẽ không một ai ngoài NHNN có được con số chính
xác về nợ xấu, tất cả cũng chỉ là suy đoán mà thôi. Cứ cho rằng, nợ xấu có thể
gấp 2-3 lần con số công bố, thì đó cũng không phải hoàn toàn là nợ xấu BĐS. Con
số dư nợ hơn một triệu tỷ đồng (tương đương 36% tổng dư nợ hệ thống và chưa rõ
bao nhiêu là nợ xấu) của các doanh nghiệp Nhà nước còn đáng lo hơn nhiều.
Thứ ba, tồn kho
BĐS hiện nay chủ yếu là các dự án căn hộ cao cấp hoặc cố tình gắn mác cao cấp
theo trào lưu, và nợ xấu ngân hàng liên quan đến BĐS cũng gắn liền với những dự
án này. Trong khi đó, phân khúc BĐS bình dân, nhà phố với đơn giá không quá cao
(chiếm một lượng giao dịch rất lớn của thị trường BĐS) vẫn được giao dịch, dù
có chậm hơn thời sốt nóng. Những dự án BĐS của Đất Lành cho người thu nhập thấp
là một điển hình, và tất nhiên nợ xấu không phát sinh từ những dự án này.
Thứ tư, những
“xác chết” trong ngành ngân hàng chủ yếu là do nhóm lợi ích trong ngành này gây
ra, từ những hoạt động tay không bắt giặc như kiểu Bầu Kiên chứ không phải do
nợ xấu của những dự án BĐS bên ngoài. Các ông bà chủ ngân hàng không ưu ái dành
phần lớn nguồn vốn của ngân hàng họ cho các dự án bên ngoài, để rồi những người
xa lạ có thể làm họ sụp đổ. NHNN là người rõ điều này hơn ai hết.
Thứ năm, đừng so
sánh sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay với cuộc khủng hoảng
tín dụng dưới chuẩn Mỹ năm 2008. Các khoản vay BĐS ở Việt Nam đơn thuần chỉ là những khoản
vay đầu tư, đầu cơ có thế chấp BĐS, một số ít là tín chấp và hoàn toàn không có
chứng khoán hóa các khoản tín dụng BĐS để có thể gây tác động dây chuyền.
Qui
mô của thị trường BĐS và các ngành liên quan?
Theo phương pháp
của TS. Lê Hồng Giang[3],
nhưng bằng con số cập nhật hơn và “an toàn” hơn, có thể ước lượng sự đóng của
thị trường BĐS và các ngành liên quan vào GDP. Lấy tỷ trọng dư nợ BĐS của
Tp.HCM làm đại diện cho tỷ trọng của toàn ngành, tức 10,4%. Dư nợ hiện tại của
cả hệ thống các TCTD khoảng 2,8 triệu tỷ đồng thì tổng dư nợ tín dụng BĐS
khoảng 291.000 tỷ đồng. Tỷ trọng cấp tín dụng của các dự án BĐS thông thường là
70% nhu cầu vốn cho thời gian 5 năm, vậy tổng giá trị của các dự án BĐS vào
khoảng 83.200 tỷ đồng/năm.
Qui mô thị
trường BĐS có thể nhỏ hơn con số tính toán vì dư nợ này bao gồm các khoản vay mua
nhà ở từ các dự án đã được ngân hàng tài trợ nên có thể bị tính trùng, các
khoản cho vay để mua đi bán lại, không phải là người tiêu dùng cuối cùng và
không tạo ra giá trị tăng thêm. Thế nhưng 83.200 tỷ đồng cũng chỉ tương đương 3,04%
GDP (GDP danh nghĩa quí 1/2013 của Việt Nam là 683.668 tỷ đồng theo TCTK).
Các ngành công
nghiệp liên quan như vật liệu, xây dựng… chỉ là công nghiệp hỗ trợ, sản phẩm
của các ngành này là đầu vào của dự án BĐS, giá trị sản phẩm của họ đã được
tính vào trong giá trị của toàn bộ dự án BĐS nên không cần tính thêm sự đóng
góp của các ngành này vào GDP. Đấy là con số có thể chấp nhận được về sự đóng
góp của ngành BĐS vào tổng sản lượng quốc nội.
BĐS
giải quyết được bao nhiêu việc làm?
Theo bản tin
kinh tế vĩ mô số 8 của Ủy ban kinh tế của Quốc hội (2013), thì ngành BĐS đang
tạo ra khoảng 3,8 triệu lao động (3,3 triệu lao động ngành xây dựng và 500 ngàn
lao động ngành vật liệu xây dựng), chiếm khoảng 7,4% lực lượng lao động cả
nước.
Chưa biết độ
chính xác của con số này như thế nào bởi bản tin không đề cập nguồn của số
liệu, nhưng 7,4% là con số đáng kể. Bỏ qua yếu tố rằng con số này chưa phản ánh
chính xác con số việc làm mà thị trường BĐS có thể tạo ra thì sự sụt giảm của
giá BĐS không hẳn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ số lao động này. Một lần nữa, cần
nhắc lại rằng, mấy năm qua thị trường BĐS tổng quan là kém sôi động nhưng nhiều
phân khúc vẫn giao dịch tốt vì nhu cầu nhà ở thật sự của người dân vẫn rất lớn.
Khi giá BĐS sụt
giảm, lao động trong ngành sẽ có sự điều chỉnh, tuy nhiên có thể giá nhà đất
phù hợp hơn với thu nhập của đại bộ phận người dân, thị trường BĐS sẽ sôi động
và có thể sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn thay vì cố thủ ở giá cao và giao
dịch ảm đạm như hiện nay.
Hỗ
trợ ai?
Gói hỗ trợ
30.000 tỷ đồng, về danh nghĩa không phải là đổ tiền trực tiếp cho doanh nghiệp
BĐS (ai mà dại đến mức đó). Tuy nhiên, các điều kiện của gói hỗ trợ này chứa
đựng nhiều vấn đề.
Với người có thu
nhập thấp, những đối tượng công chức, viên chức và lực lượng vũ trang hưởng
lương thì thời hạn vay sẽ không dưới 10 năm. Thời gian hỗ trợ lãi suất chỉ là
03 năm, liệu đây có phải là thời gian mà NHNN dự tính rằng các đại gia BĐS đã
phục hồi và gói cứu trợ sẽ không còn cần thiết (!?). Khoảng thời gian còn lại
khách hàng vay sẽ phải tự bơi, và nhiều khách hàng có thể không bao giờ được sở
hữu căn nhà mà mình đã ky cóp mấy năm trước đó.
Một trong những
điều kiện vay vốn theo chương trình này là “vay vốn để thuê, thuê mua một căn
nhà duy nhất để ở”, tức là mỗi người chỉ được hỗ trợ để mua một căn duy nhất,
không phải là khách hàng trước đó chưa có nhà ở. Điều này làm rõ hơn “dụng ý”
của người soạn thảo về việc ai mới là người được hỗ trợ. Số tiền 30.000 tỷ đồng
sẽ chắc chắn giải ngân hết (đây là điều thị trường BĐS cần), còn người mua nhà
có thể là những tỷ phú mang danh công chức (ở Việt Nam nhiều lắm).
Nếu hỗ trợ người
mua nhà, sao không để giá nhà đất giảm thêm mà phải hỗ trợ lãi suất. Khi giá
nhà đất giảm, nhiều người dân có thể tiếp cận được nhà ở chứ không chỉ gói
trong nhóm nhỏ người thu nhập thấp, công – viên chức. Khi giá nhà đất giảm thì
người dân có thể không cần phải đi vay để rồi mắc nợ ngân hàng. Vậy thực tế hỗ
trợ ai đã có câu trả lời.
Lê Duy Khánh
Subscribe to:
Posts (Atom)