Friday, October 25, 2013

Đằng sau cuộc đua giảm lãi suất cho vay



Bài đăng trên TBKTSG số 41-2913 và Saigontime Weekly số 42-2013.
 
Chúng ta đang đi vào những tháng cuối cùng của năm 2013 để kết thúc giai đoạn 2 của quá trình tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM). Nhìn lại 3 năm đã qua của quá trình tái cơ cấu, nhiều người băn khoăn, liệu quá trình này đã đi đúng hướng, đã kịp tiến độ? Thật khó có câu trả lời thỏa đáng, nhưng điều có thể dễ nhận thấy là các NHTM hiện này lại đang lao vào một “cuộc đua lãi suất”mới, nhưng ngược với trước đây, là đua giảm lãi suất cho vay. Đằng sau cuộc đua này là gì, và liệu nợ xấu có tăng cao hơn nữa?
Chỉ tiêu kinh doanh đè nặng
Mô hình sau cho chúng ta cái nhìn tổng quan về những hoạt động đầu tư của một NHTM. Từ nguồn vốn bao gồm chủ yếu là nguồn tiền gửi của khách hàng, cùng một phần nhỏ là nguồn vốn tự có và vốn huy động khác (vốn vay NHTW, vay và tiền gửi của các TCTD khác…), NHTM sử dụng để dự trữ thanh khoản, cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư khác. Trong đó, với một NHTM, tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng tài sản vẫn thường chiếm tỷ trọng khoảng 50-70%.
Như vậy, với tỷ trọng các khoản cấp tín dụng chiếm phần lớn trong tổng tài sản, có thể nói rằng cấp tín dụng là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của NHTM. Vì vậy, nhìn vào bảng kết quả kinh doanh của một số NHTM đến 30/6/2013 ở mảng cấp tín dụng, chúng ta sẽ thấy được gần như đầy đủ nguyên nhân của cuộc đua giảm lãi suất cho vay hiện nay:
ĐVT: triệu đồng
Ngân hàng
Dư nợ
Tổng tài sản
Tiền gửi khách hàng
Thu từ lãi và tương tự
30/12/2012
30/6/2013
30/12/2012
30/6/2013
30/12/2012
30/6/2013
6 tháng 2012
6 tháng 2013
CTG
   331,935
   333,248
   503,192
   521,955
     289,597
     307,531
        27,261
        22,761
VCB
   239,773
   236,176
   414,241
   436,252
     285,096
     305,746
        16,513
        14,489
ACB
   101,832
   109,600
   175,196
   168,325
     126,679
     142,631
        12,655
          8,031
TCB
     68,261
     69,864
   177,935
   169,542
     112,544
     113,081
          9,716
          7,002
MSB
     28,943
     27,276
   109,923
   108,655
       59,586
       66,155
          6,862
          4,395
(Nguồn: tổng hợp từ báo cáo tài chính của các NHTM)
Dù không mang tính đại diện, nhưng những ngân hàng được khảo sát đều là những ngân hàng lớn của Việt Nam. Số liệu cho thấy từ đầu năm đến nay, dư nợ tín dụng của các NHTM này hầu như không tăng trưởng, thậm chí còn giảm sút như VCB hay MSB. Thu nhập từ lãi và các khoản tương tự ở tất cả các ngân hàng khảo sát trong 6 tháng đầu năm 2013 đều sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2012, đặc biệt ở ACB, CTG. Sự sụt giảm này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh chung của từng ngân hàng.
Trong điều kiện hiện tại, dư nợ tín dụng không tăng/tăng ít nhưng thu nhập từ lãi giảm sút có thể là nguyên nhân của tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng, dẫn đến nhiều khoản cho vay không thu hồi được tiền lãi. Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất cho vay giảm mạnh, các NHTM buộc phải điều chỉnh giảm lãi suất đối với các khoản dư nợ hiện hữu và những khoản giải ngân mới, bao gồm những khoản giải ngân sau khi trả nợ cũ của những món vay theo hạn mức tín dụng.
Ở chiều ngược lại, tiền gửi khách hàng vẫn tăng trong 6 tháng đầu năm ở tất cả các ngân hàng được khảo sát, tạo ra áp lực về việc sử dụng vốn hiệu quả khi năm 2013 đến nay chỉ còn hơn 3 tháng. Thực tế nguồn vốn bị ứ đọng ở nhiều NHTM không chỉ nay mới xảy ra, chính áp lực về việc sử dụng nguồn tiền gửi của khách hàng có hiệu quả đã dẫn đến việc ACB và nhiều NHTM khác ủy thác cho nhân viên của mình gửi tiền ở các NHTM khác với lãi suất cao và phải đối mặt với nhiều rủi ro.
Trong khi đó, các kênh đầu tư khác của NHTM cũng không đem lại hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Cho vay liên ngân hàng từ ngày Thông tư 21/2012/TT-NHNN có hiệu lực đã không còn sôi động như trước. Các NHTM có nợ quá hạn trên thị trường liên ngân hàng cũng không được vay vốn vì khả năng chi trả và vì những qui định của NHNN tại thông tư này. Giảm lãi suất cho vay đối với dân cư và các tổ chức về mức 8-10%/năm vẫn tốt hơn nhiều so với việc gửi tiền/cho vay các NHTM khác, hiện chỉ ở mức 3-4%/năm. Việc thu lợi lớn của nhiều NHTM từ thị trường liên ngân hàng khi hệ thống bất ổn đã không còn như những năm trước.
Hoạt động của ngân hàng đầu tư như góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh chứng khoán không phải là hoạt động chính của NHTM. Hơn nữa, thị trường chứng khoán trong điều kiện hiện nay không tạo ra nhiều cơ hội để NHTM có thể sinh lời từ hoạt động bị hạn chế này, đặc biệt là từ sau khi Luật các TCTD 2010 ra đời, tách các hoạt động này ra khỏi hoạt động trực tiếp của NHTM.
Với các NHTM, ở một khía cạnh nào đó, trong khó khăn luôn tồn tại những cơ hội, và thị trường này có thể là môi trường tốt để các ngân hàng sàng lọc, nắm bắt và chiếm lĩnh thị phần. Chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra thu hẹp là tất yếu của cạnh tranh và không thể tránh khỏi, các NHTM biết điều đó. Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là gia nhập cuộc đua để được một phần nào đó hơn là chọn cách đứng bên lề.
Thực tế hiện nay, để gia tăng thu nhập, con đường các NHTM cần phải tính đến đầu tiên là tăng trưởng tín dụng. Hơn thế nữa, các NHTM cần có con số để “phân chia” thị phần từ NHNN vào năm sau, nếu NHNN vẫn tiếp tục duy trì cơ chế phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng như hiện nay.
Thiệt hại thuộc về ai?
Sự cạnh tranh về lãi suất rõ ràng không cân sức khi xét theo nhóm ngân hàng, và phần thiệt hại luôn thuộc về khối cổ phần. Còn xét trong khối cổ phần thì phần thiệt hại hơn sẽ thuộc về các ngân hàng nhỏ.
Sẽ thật khó hiểu với những gói lãi suất rất thấp mà các ngân hàng như VCB, Vietinbank đang thực hiện, khi nhiều doanh nghiệp cho biết họ vay vốn tại các ngân hàng này với lãi suất chỉ 6%/năm. Còn những gói lãi suất 7-8%/năm hiện khá phổ biến, áp dụng cả cho những sản phẩm trung dài hạn như vay mua xe ôtô, mua nhà…ở cả những ngân hàng nhỏ. Đối với nhóm tứ đại gia (VCB, Vietinbank, Agribank và BIDV), mức lãi suất cho vay hiện nay không làm họ thua lỗ nhờ giá vốn thấp (bình quân tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng này ở mức 25% tổng tiền gửi của khách hàng, lãi suất có kỳ hạn 1-6 của các ngân hàng này hiện cũng không còn bám trần lãi suất). Tuy nhiên, cho vay ở mức 7-8% thì các NHTM nhỏ cầm chắc thua lỗ vì lãi suất trần tiền gửi dưới 6 tháng hiện đã 7%/năm (mà hiện họ vẫn bám trụ), chưa tính chi phí hoạt động, bảo hiểm tiền gửi, dự trữ (thanh khoản và bắt buộc tại NHNN), chi phí dự phòng chung…). Tuy nhiên, các mức lãi suất ưu đãi này đều thuộc các chương trình khuyến mãi, áp dụng cho 3-6 tháng đầu tiên. Như vậy, các ngân hàng đang chấp nhận hòa vốn hoặc thậm chí lỗ trong 3-6 tháng đầu của hợp đồng vay và sẽ “thu lại” sau khi hết thời gian ưu đãi.
Vì vậy, điều khách hàng vay cần lưu ý là lãi suất sẽ được thay đổi như thế nào sau thời gian khuyến mãi. Thông thường, mức lãi suất này sẽ bằng lãi suất tiền gửi của cá nhân, kỳ hạn 12 hoặc 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ cộng với một biên độ nhất định, thường ở mức tối thiểu 3%/năm. Nếu dựa theo mức lãi suất của VCB hiện tại, sau khi hết thời gian ưu đãi, lãi suất áp dụng cho khách hàng vay khoảng 10,5%/năm. Đây là mức lãi suất có thể chấp nhận được và có thể giảm thêm trong thời gian tới (dù có thể không nhiều). Tuy nhiên, nếu không rõ ràng trong vấn đề này, phần thiệt hại sẽ thuộc về người vay một khi số tiền đã giải ngân.
Trong cuộc đua này, khách hàng vay có thể là người chịu thiệt cuối cùng bởi các NHTM sẽ không bao giờ chấp nhận thua lỗ, mọi khoản giảm lãi suất đều đã được tính toán để bảo đảm mức sinh lời hợp lý cho cả chu kỳ kinh doanh. Còn với người sử dụng vốn vay, 10 năm vay vốn mua nhà rõ ràng không gọi là ưu đãi nếu chỉ giảm lãi suất đối với 3-6 tháng đầu tiên.
Số ảo và …nợ xấu?
Có nhiều cách để tăng trưởng tín dụng. Nhưng những cách tăng trưởng hiện nay đang tạo ra số dư ảo và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Vàng không còn được nhận như là tiền gửi, không còn được nhận giữ hộ nhưng có thể là một tài sản thế chấp thông thường. Nhiều NHTM đang nhận thế chấp vàng như là tài sản bảo đảm thông thường để cho vay tiền đồng với lãi suất 7-8%/năm. Nguồn tiền vay này giúp gia tăng dư nợ của ngân hàng nhận vàng thế chấp, đồng thời có thể giúp ngân hàng khác gia tăng tiền gửi một khi dòng tiền vay này lại được gửi vào một ngân hàng khác.
Nhiều NHTM (đặc biệt là các NHTM Nhà nước) đang áp dụng các gói lãi suất đặc biệt ưu đãi. Lãi suất cho vay ngắn hạn có thể chỉ khoảng 6%/năm như đã đề cập. Điều này gợi nhớ lại gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm mà NHNN đã từng áp dụng vào các năm 2009-2010, khi đó đã đưa mức lãi suất cho vay về 5-6%/năm. Điều này có thể lại tạo con số gia tăng “ảo” khi dòng tín dụng không đến với nền kinh tế mà chỉ lòng vòng trong hệ thống ngân hàng.
Nhiều khách hàng hiện nay không mặn mà với việc vay vốn, bởi vay không biết để làm gì dù lãi suất đã khá thấp. Tất nhiên, những người làm kinh doanh ngân hàng biết điều đó. Chính vì thế mà cấp tín dụng qua thẻ đang được các ngân hàng ráo riết đẩy mạnh. Loại hình cho vay này đáp ứng được thực tế “vay không biết để làm gì” của khách hàng, và ngân hàng cũng không quan tâm mục đích sử dụng vốn ngoài mục đích chung là vay tiêu dùng. Khi một số tiền luôn sẵn sàng bên cạnh, khả năng khách hàng móc hầu bao cho các hoạt động chi tiêu là rất có thể. Tuy vậy, loại hình cho vay này luôn tiềm ẩn rủi ro cao mà vừa qua, chính NHNN đã phải lên tiếng cảnh báo các NHTM khi đẩy mạnh nghiệp vụ này.
Không ồ ạt và dễ dãi như trước, nhưng cuộc chạy đua tăng trưởng tín dụng lần này cũng tạo ra những lo ngại. Một khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đè nặng lên nhân viên kinh doanh và cả hệ thống, nợ quá hạn sẽ có cơ hội phát sinh. Sự giành giật khách hàng giữa các NHTM trên thị trường hiện rất gay gắt, điều mà những người trong ngành có thể cảm nhận rõ ràng. Vì vậy, hạ chuẩn hoặc lách qui định để cho vay là hoàn toàn có thể.
Với những nhân viên kinh doanh, áp lực chỉ tiêu để có lương, thưởng cuối năm, thậm chí chỉ để bảo đảm cho vị trí công việc trước áp lực bị sa thải, họ buộc phải lao vào cuộc cạnh tranh mà rủi ro có thể sẽ tiếp tục bị xem thường. Thực tế đã chứng minh, sau thời kỳ tăng trưởng tín dụng dễ dãi, hệ thống ngân hàng phải mất một thời gian dài để xử lý. Hi vọng việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong một vài tháng gần đây không phải là chỉ báo cho điều đó, vì như thế là quá sớm.

2 comments: