Friday, March 8, 2013

Từ lãi suất cơ bản đến lãi suất thỏa thuận


(TBKTSG) - Các đại biểu Quốc hội đang thảo luận về việc có nên bỏ hay không quy định về lãi suất cơ bản (LSCB) trong dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Vẫn còn hai luồng ý kiến trái chiều và xem ra để có một quyết định cuối cùng là điều không đơn giản.

Từ lãi suất cơ bản

Tôi vẫn còn nhớ cảm giác hân hoan của lãnh đạo Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) và các ngân hàng thương mại khi NHNN ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN gỡ bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26-2-2008.
 

Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Rất nhiều mỹ từ đã được sử dụng để ca ngợi quyết định này của NHNN.

Bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký VNBA, nhận định: “Như vậy điều hành lãi suất đã đi đúng luật. Không còn con đường nào khác, các ngân hàng phải đi theo luật, không thể cứ lao theo thị trường mà bỏ qua luật. Cơ chế mới tạo điều kiện để các ngân hàng biết rằng anh đang hoạt động trong khung pháp lý nào” (1). Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam, nói: “Cuối cùng, ức chế đã được giải phóng” (2).

Tuy vậy, sự ca ngợi cũng không kéo dài được lâu, LSCB sau đó đã trở thành cái “vòng kim cô” trói buộc các TCTD trong hoạt động kinh doanh khi LSCB không theo kịp những điều chỉnh của thị trường. Cạnh tranh thông qua lãi suất, về bản chất đó là giá mua bán hàng hóa (ở đây là tiền) của một đơn vị kinh doanh, không còn trong khi đấy chính là yếu tố cạnh tranh chính của các ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Mặc dù vậy, để duy trì sự ổn định của chính sách tiền tệ, tránh cuộc chạy đua lãi suất và thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, NHNN vẫn duy trì cơ chế điều hành lãi suất này cho đến ngày 26-2-2010. Đến ngày 14-4-2010, NHNN ban hành thông tư số 12/2010/TT-NHNN thì gần như tất cả các khoản vay đều thực hiện theo lãi suất thỏa thuận (LSTT).

Theo dự thảo Luật NHNN mới nhất, điều 12 ghi: “1. NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ. 2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác”. Theo cách viết này thì các nhà làm luật muốn đưa LSCB vào “các loại lãi suất khác” và NHNN chỉ công bố khi cần thiết, đó là khi thị trường tiền tệ có những diễn biến bất thường. Theo tôi, cách làm luật này có nhiều bất ổn.

Thứ nhất, dù các nhà làm luật có dụng ý gì thì bằng câu chữ, rõ ràng đã không còn tồn tại LSCB. Luật có thể tạo lối mở nhưng không thể muốn hiểu kiểu gì thì hiểu. Khi đưa vào áp dụng, các TCTD không biết rằng khi nào NHNN ban hành các loại lãi suất khác và đó là các loại lãi suất gì. Liệu có ban hành LSCB và khi đó LSCB giữ vai trò gì. Điều này tạo ra tâm lý bất an cho những nhà quản trị, điều hành ngân hàng, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường tiền tệ có biến động.
Khi Luật NHNN không còn LSCB thì quy định tại điều 476 của Bộ luật Dân sự hiện nay cũng không còn tác dụng, có thể đến một lúc nào đó sẽ bị bãi bỏ. Thị trường có thể rối loạn.

Vì vậy, việc bỏ LSCB theo tôi là không thể. Thực tế, trong suốt quá trình tồn tại của mình, LSCB chỉ có tác dụng trong việc thiết lập một mức lãi suất trần kinh doanh của các TCTD nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và hạn chế hoạt động cho vay nặng lãi trong xã hội, ngoài ra không có thêm vai trò nào khác. Cả hai vai trò này đều cần thiết và cần phải duy trì.

Tuy nhiên, làm sao giải được bài toán LSCB trở thành vòng kim cô kìm hãm hoạt động của các TCTD. Câu trả lời thật ra hết sức đơn giản. Mức lãi suất huy động và cho vay trên thị trường ngân hàng luôn phản ánh quy luật cung cầu vốn dù có tồn tại LSCB hay không. Trong điều kiện bình thường, giả sử mức lãi suất cho vay tiền đồng của các TCTD bình quân vào khoảng 15%/năm, mức lãi suất này đảm bảo cho các TCTD thu hút được nguồn tiền gửi, cân đối được thu chi và tiến độ giải ngân ổn định thì nếu NHNN công bố LSCB lên đến 20%/năm (tức lãi suất trần kinh doanh của các TCTD là 30%/năm) thì cũng không ảnh hưởng gì đến lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Cần lưu ý rằng LSCB không bao giờ là nguyên nhân của các cuộc chạy đua lãi suất, cũng không bao giờ là vòng kim cô nếu tình hình hoạt động của thị trường ngân hàng ổn định.

Như vậy, trong điều kiện bình thường, NHNN công bố mức LSCB nhằm mục tiêu hạn chế việc các TCTD và các quan hệ vay mượn khác trong xã hội rơi vào hoạt động cho vay nặng lãi, còn trong điều kiện thị trường tiền tệ có những bất ổn thì LSCB trở thành công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vậy tại sao phải bỏ?

Ở Việt Nam hiện nay, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (tương đương với discount rate - lãi suất chiết khấu và Fed funds rate - lãi suất cho vay để đảm bảo dự trữ bắt buộc của FED) mới là những công cụ có vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh trên thị trường tiền tệ. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian qua, hai loại lãi suất này không đóng vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh của thị trường ngân hàng như mong đợi một phần vì các TCTD ở Việt Nam không nắm giữ nhiều các giấy tờ có giá, tâm lý ngại vay của NHNN và một phần quan trọng là NHNN chưa thực hiện tốt vai trò là người cho vay cuối cùng. Vì vậy, hai nhân vật chính này núp sau cánh gà còn “diễn viên phụ” là LSCB trở thành chủ nhân của sân khấu và dành trọn những lời khen chê từ “khán giả”.

Đến lãi suất thỏa thuận

Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của NHNN cho phép các TCTD cho vay theo LSTT và các TCTD thực hiện cho vay với mức lãi suất vượt 150% LSCB do NHNN công bố. Vậy, LSTT là muốn cho vay với lãi suất bao nhiêu cũng được, không còn bị ràng buộc bởi các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành?

Lật lại hồ sơ thì LSTT lần đầu tiên được NHNN đề cập trong Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002 (Quyết định 546), trong đó ghi: “Nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay...”.

Quyết định này khi đó nhằm thay thế cho Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2-8-2000 vốn quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các TCTD không vượt quá mức LSCB và biên độ được NHNN quy định trong từng thời kỳ chứ không phải để gỡ trần do vướng Bộ luật Dân sự vì tại thời điểm đó Bộ luật Dân sự năm 1995 chưa đề cập đến LSCB.

Khoản 1, điều 473 của Bộ luật Dân sự 1995 chỉ ghi: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Như vậy, theo quyết định 546, LSTT có thể hiểu là lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng không phụ thuộc vào LSCB và NHNN cũng không còn công bố biên độ điều chỉnh.

Từ đó, chúng ta mang cách hiểu về LSTT của năm 2002 áp dụng cho năm 2010 khi điều kiện đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là pháp luật đã có những quy định cụ thể đòi hỏi chúng ta phải hiểu chính xác về LSTT. Việc hiểu không đúng về LSTT thời điểm này dẫn đến cả hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phạm luật. Khi Bộ luật Dân sự 2005 được thông qua, cần phải hiểu LSTT là lãi suất được thỏa thuận giữa người đi vay và cho vay nhưng không trái với các quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, khi LSCB tháng 5-2010 đang là 8%/năm, lãi suất kinh doanh của các TCTD không thể vượt quá 12%/năm.

Bộ luật Dân sự hiện hành vẫn còn đó điều khoản về lãi suất, để có thể thay đổi thì ít nhất cần có một Nghị quyết của Quốc hội điều chỉnh nội dung này. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ tư ngày 6-11-2008 có đề cập: “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả cao”.

Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu LSTT này như thế nào? Không thể hiểu LSTT là lãi suất bao nhiêu cũng được vì nghị quyết không hề giải thích như vậy. Hiểu LSTT theo Quyết định 546 là lãi suất được tự do thỏa thuận, không phụ thuộc vào LSCB cũng không được vì như đã đề cập, quyết định này ban hành khi Bộ luật Dân sự 2005 chưa ra đời, khi đã có Bộ luật Dân sự 2005, Quyết định 546 không thể được giải thích trái với một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao hơn.

Như vậy, điều quan trọng nhất là gì khi nói đến LSTT? Đó là một lời giải thích rõ ràng ở một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị ngang bằng hoặc cao hơn Bộ luật Dân sự hiện hành. Khi chưa có giải thích, chỉ có thể hiểu LSTT theo Quyết định 546, một cách hiểu không còn phù hợp. Do đó, khi một khách hàng kiện một TCTD ra tòa vì cho vay vượt 150% LSCB ở thời điểm hiện tại, tôi tin phần thắng sẽ thuộc về khách hàng.

Cuối cùng, chúng ta thấy rằng LSCB và LSTT có thể tồn tại song hành và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, trong hoạt động kinh doanh của các TCTD và chi phối các quan hệ vay mượn dân sự nói chung trong toàn xã hội. Đối với LSCB, cần một cách hiểu đúng để có cách điều hành phù hợp. Đối với LSTT, cần một định nghĩa rõ ràng để thị trường tiền tệ được vận hành thông suốt. Có như vậy, các đại biểu Quốc hội mới có thể nhẹ lòng khi nhấn nút thông qua Luật NHNN sửa đổi vào ngày 16-6 này.
.
_____________________________________________
(1), (2) Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 19-5-2008.

Lê Duy Khánh

No comments:

Post a Comment