Từ lãi suất cơ bản
Tôi vẫn còn nhớ cảm giác hân hoan của lãnh đạo Hiệp
hội Ngân hàng (VNBA) và các ngân hàng thương mại khi NHNN ban hành Quyết
định số 16/2008/QĐ-NHNN gỡ bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm theo công
điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26-2-2008.
Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Rất nhiều mỹ từ đã được sử dụng để ca ngợi quyết định này của NHNN.
Bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký VNBA, nhận định: “Như
vậy điều hành lãi suất đã đi đúng luật. Không còn con đường nào khác,
các ngân hàng phải đi theo luật, không thể cứ lao theo thị trường mà bỏ
qua luật. Cơ chế mới tạo điều kiện để các ngân hàng biết rằng anh đang
hoạt động trong khung pháp lý nào” (1). Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam, nói: “Cuối cùng, ức chế đã được giải phóng” (2).
Tuy vậy, sự ca ngợi cũng không kéo dài được lâu, LSCB
sau đó đã trở thành cái “vòng kim cô” trói buộc các TCTD trong hoạt
động kinh doanh khi LSCB không theo kịp những điều chỉnh của thị trường.
Cạnh tranh thông qua lãi suất, về bản chất đó là giá mua bán hàng hóa
(ở đây là tiền) của một đơn vị kinh doanh, không còn trong khi đấy chính
là yếu tố cạnh tranh chính của các ngân hàng trong điều kiện hiện nay.
Mặc dù vậy, để duy trì sự ổn định của chính sách tiền tệ, tránh cuộc
chạy đua lãi suất và thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng
trưởng, NHNN vẫn duy trì cơ chế điều hành lãi suất này cho đến ngày
26-2-2010. Đến ngày 14-4-2010, NHNN ban hành thông tư số 12/2010/TT-NHNN
thì gần như tất cả các khoản vay đều thực hiện theo lãi suất thỏa thuận
(LSTT).
Theo dự thảo Luật NHNN mới nhất, điều 12 ghi: “1.
NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất khác để điều hành
chính sách tiền tệ. 2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến
bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan
hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín
dụng khác”. Theo cách viết này thì các nhà làm luật muốn đưa LSCB vào
“các loại lãi suất khác” và NHNN chỉ công bố khi cần thiết, đó là khi
thị trường tiền tệ có những diễn biến bất thường. Theo tôi, cách làm
luật này có nhiều bất ổn.
Thứ nhất, dù các nhà làm luật có dụng ý gì thì bằng
câu chữ, rõ ràng đã không còn tồn tại LSCB. Luật có thể tạo lối mở nhưng
không thể muốn hiểu kiểu gì thì hiểu. Khi đưa vào áp dụng, các TCTD
không biết rằng khi nào NHNN ban hành các loại lãi suất khác và đó là
các loại lãi suất gì. Liệu có ban hành LSCB và khi đó LSCB giữ vai trò
gì. Điều này tạo ra tâm lý bất an cho những nhà quản trị, điều hành ngân
hàng, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường tiền tệ có biến động.
Khi Luật NHNN không còn LSCB thì quy định tại điều
476 của Bộ luật Dân sự hiện nay cũng không còn tác dụng, có thể đến một
lúc nào đó sẽ bị bãi bỏ. Thị trường có thể rối loạn.
Vì vậy, việc bỏ LSCB theo tôi là không thể. Thực tế,
trong suốt quá trình tồn tại của mình, LSCB chỉ có tác dụng trong việc
thiết lập một mức lãi suất trần kinh doanh của các TCTD nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia và hạn chế hoạt động cho vay nặng lãi trong
xã hội, ngoài ra không có thêm vai trò nào khác. Cả hai vai trò này đều
cần thiết và cần phải duy trì.
Tuy nhiên, làm sao giải được bài toán LSCB trở thành
vòng kim cô kìm hãm hoạt động của các TCTD. Câu trả lời thật ra hết sức
đơn giản. Mức lãi suất huy động và cho vay trên thị trường ngân hàng
luôn phản ánh quy luật cung cầu vốn dù có tồn tại LSCB hay không. Trong
điều kiện bình thường, giả sử mức lãi suất cho vay tiền đồng của các
TCTD bình quân vào khoảng 15%/năm, mức lãi suất này đảm bảo cho các TCTD
thu hút được nguồn tiền gửi, cân đối được thu chi và tiến độ giải ngân
ổn định thì nếu NHNN công bố LSCB lên đến 20%/năm (tức lãi suất trần
kinh doanh của các TCTD là 30%/năm) thì cũng không ảnh hưởng gì đến lãi
suất kinh doanh của các TCTD.
Cần lưu ý rằng LSCB không bao giờ là nguyên nhân của
các cuộc chạy đua lãi suất, cũng không bao giờ là vòng kim cô nếu tình
hình hoạt động của thị trường ngân hàng ổn định.
Như vậy, trong điều kiện bình thường, NHNN công bố
mức LSCB nhằm mục tiêu hạn chế việc các TCTD và các quan hệ vay mượn
khác trong xã hội rơi vào hoạt động cho vay nặng lãi, còn trong điều
kiện thị trường tiền tệ có những bất ổn thì LSCB trở thành công cụ quan
trọng để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vậy tại
sao phải bỏ?
Ở Việt Nam hiện nay, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
tái chiết khấu (tương đương với discount rate - lãi suất chiết khấu và
Fed funds rate - lãi suất cho vay để đảm bảo dự trữ bắt buộc của FED)
mới là những công cụ có vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh trên thị
trường tiền tệ. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian qua, hai loại lãi suất
này không đóng vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh của thị trường ngân
hàng như mong đợi một phần vì các TCTD ở Việt Nam không nắm giữ nhiều
các giấy tờ có giá, tâm lý ngại vay của NHNN và một phần quan trọng là
NHNN chưa thực hiện tốt vai trò là người cho vay cuối cùng. Vì vậy, hai
nhân vật chính này núp sau cánh gà còn “diễn viên phụ” là LSCB trở thành
chủ nhân của sân khấu và dành trọn những lời khen chê từ “khán giả”.
Đến lãi suất thỏa thuận
Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của NHNN
cho phép các TCTD cho vay theo LSTT và các TCTD thực hiện cho vay với
mức lãi suất vượt 150% LSCB do NHNN công bố. Vậy, LSTT là muốn cho vay
với lãi suất bao nhiêu cũng được, không còn bị ràng buộc bởi các quy
định của Bộ luật Dân sự hiện hành?
Lật lại hồ sơ thì LSTT lần đầu tiên được NHNN đề cập
trong Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002 (Quyết định 546),
trong đó ghi: “Nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động
tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Tổ
chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở
cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay...”.
Quyết định này khi đó nhằm thay thế cho Quyết định số
241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2-8-2000 vốn quy định lãi suất cho vay bằng đồng
Việt Nam của các TCTD không vượt quá mức LSCB và biên độ được NHNN quy
định trong từng thời kỳ chứ không phải để gỡ trần do vướng Bộ luật Dân
sự vì tại thời điểm đó Bộ luật Dân sự năm 1995 chưa đề cập đến LSCB.
Khoản 1, điều 473 của Bộ luật Dân sự 1995 chỉ ghi:
“Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của
lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Như
vậy, theo quyết định 546, LSTT có thể hiểu là lãi suất cho vay của các
TCTD đối với khách hàng không phụ thuộc vào LSCB và NHNN cũng không còn
công bố biên độ điều chỉnh.
Từ đó, chúng ta mang cách hiểu về LSTT của năm 2002
áp dụng cho năm 2010 khi điều kiện đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là
pháp luật đã có những quy định cụ thể đòi hỏi chúng ta phải hiểu chính
xác về LSTT. Việc hiểu không đúng về LSTT thời điểm này dẫn đến cả hệ
thống ngân hàng Việt Nam đang phạm luật. Khi Bộ luật Dân sự 2005 được
thông qua, cần phải hiểu LSTT là lãi suất được thỏa thuận giữa người đi
vay và cho vay nhưng không trái với các quy định của pháp luật hiện
hành. Do đó, khi LSCB tháng 5-2010 đang là 8%/năm, lãi suất kinh doanh
của các TCTD không thể vượt quá 12%/năm.
Bộ luật Dân sự hiện hành vẫn còn đó điều khoản về lãi
suất, để có thể thay đổi thì ít nhất cần có một Nghị quyết của Quốc hội
điều chỉnh nội dung này. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2009 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ tư ngày
6-11-2008 có đề cập: “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay
trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN theo quy định của pháp luật và được
phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất -
kinh doanh có hiệu quả cao”.
Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu LSTT này như thế nào?
Không thể hiểu LSTT là lãi suất bao nhiêu cũng được vì nghị quyết không
hề giải thích như vậy. Hiểu LSTT theo Quyết định 546 là lãi suất được tự
do thỏa thuận, không phụ thuộc vào LSCB cũng không được vì như đã đề
cập, quyết định này ban hành khi Bộ luật Dân sự 2005 chưa ra đời, khi đã
có Bộ luật Dân sự 2005, Quyết định 546 không thể được giải thích trái
với một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao hơn.
Như vậy, điều quan trọng nhất là gì khi nói đến LSTT?
Đó là một lời giải thích rõ ràng ở một văn bản quy phạm pháp luật có
giá trị ngang bằng hoặc cao hơn Bộ luật Dân sự hiện hành. Khi chưa có
giải thích, chỉ có thể hiểu LSTT theo Quyết định 546, một cách hiểu
không còn phù hợp. Do đó, khi một khách hàng kiện một TCTD ra tòa vì cho
vay vượt 150% LSCB ở thời điểm hiện tại, tôi tin phần thắng sẽ thuộc về
khách hàng.
Cuối cùng, chúng ta thấy rằng LSCB và LSTT có thể tồn
tại song hành và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia, trong hoạt động kinh doanh của các TCTD và chi phối
các quan hệ vay mượn dân sự nói chung trong toàn xã hội. Đối với LSCB,
cần một cách hiểu đúng để có cách điều hành phù hợp. Đối với LSTT, cần
một định nghĩa rõ ràng để thị trường tiền tệ được vận hành thông suốt.
Có như vậy, các đại biểu Quốc hội mới có thể nhẹ lòng khi nhấn nút thông
qua Luật NHNN sửa đổi vào ngày 16-6 này.
.
_____________________________________________(1), (2) Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 19-5-2008.
Lê Duy Khánh
No comments:
Post a Comment