Wednesday, March 13, 2013

Chính phủ Việt Nam không có kế hoạch giải cứu thị trường bất động sản

(Property report) Ủy ban kinh tế của Quốc hội Việt Nam công bố rằng, Việt Nam không nên thực hiện thêm bất kỳ sự hỗ trợ nào với thị trường bất động sản, như bài báo trên Vietnam Net Bridge (Trang tiếng Anh của Vietnamnet.vn).

“Thật sai lầm đối với những doanh nghiệp khi họ cho rằng chính phủ sẽ giải cứu họ. Với tỷ lệ nợ xấu cao như hiện nay, chúng ta không thể cứu thị trường bất động sản, mặc dù chúng ta muốn làm điều đó”, chủ tịch ủy ban, ông Nguyễn Văn Giàu nói.

Nếu Chính phủ tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ, có thể khuyến khích sự liều lĩnh của doanh nghiệp, Vietnam Net Bridge tường thuật.

Khu vực xây dựng của Việt Nam hiện sử dụng 3.3 triệu lao động, xấp xỉ 6.4% tổng lực lượng lao động cả nước. Ngành vật liệu xây dựng cũng cung cấp thêm 550.000 lao động cho đất nước.

Các doanh nghiệp bất động sản ở Việt Nam đã báo cáo rằng nợ vay của họ gia tăng vì lãi suất, và hệ thống ngân hàng cũng đang bị đe dọa vì thanh khoản bị siết chặt.

Sự lệnh pha giữa cung và cầu là một trong những khó khăn lớn nhất của thị trường bất động sản Việt Nam, theo một báo cáo hồi tuần trước. Trong những năm gần đây, các nhà đầu tư thường tập trung vào phân khúc thị trường cao cấp, trong khi đó, phần lớn nhu cầu xuất phát từ nhóm khách hàng có thu nhập thấp hơn.

“Giá nhà đất ở Việt Nam được đánh giá là cao so với các quốc gia khác, trong khi đó thu nhập bình quân đầu người còn thấp”, báo cáo nhận định.

Các doanh nghiệp đã đặt nhiều kỳ vọng vào thị trường bất động sản, theo Vietnam Net Bridge, họ báo cáo rằng tình trạng đầu cơ lan rộng đã dẫn đến tình trạng người dân tin rằng giá nhà đất sẽ tăng.

Giá bất động sản ở Việt Nam đã tăng đến 25 lần so với mức thu nhập bình quân trong vòng 02 thập kỷ qua, theo Vietnam Net Bridge. Ở các quốc gia châu Âu, giá nhà đất chỉ tăng cao hơn khoảng 07 lần so với mức thu nhập bình quân hằng năm, 6.2 lần ở Thái Lan và 5.2 lần ở Singapore.

Saturday, March 9, 2013

Điều hành lãi suất phải theo luật

(TBKTSG) Ngày 5-11-2010, ngày mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nâng mức lãi suất cơ bản (LSCB) từ 8%/năm lên 9%/năm, Hiệp hội Ngân hàng (HHNH) đã họp với các hội viên phía Bắc và thống nhất lãi suất huy động ở mức tối đa 12%/năm trong toàn hệ thống, thời gian hiệu lực của cam kết là từ 8-11-2010.

Thiếu vốn là thật, cam kết là hình thức

Đi tìm sự đồng thuận của các hội viên về lãi suất là cách mà HHNH vẫn áp dụng trong thời gian gần đây, từ khi các ngân hàng bước vào cuộc đua lãi suất năm 2008. Ai cũng biết rằng, HHNH không có bất kỳ công cụ nào trong tay ngoài kêu gọi sự đồng thuận của các hội viên và sự kêu gọi này dựa vào tinh thần tự giác chứ không có bất kỳ chế tài nào nếu các thành viên cam kết nhưng không thực hiện.

Tư duy “không đồng ý nhưng cũng giơ tay tán thành” không chỉ ở những cuộc họp vô thưởng vô phạt, mà còn có ở ngay cuộc họp bàn về vấn đề quan trọng nhất của hệ thống tiền tệ. Lãnh đạo các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là quy mô nhỏ, khi bước ra khỏi phòng họp mới “sực tỉnh” với bài toán “cơm áo” của đơn vị mình, đó là tình hình thanh khoản đang căng thẳng, là lợi nhuận, tổng tài sản, nguồn vốn huy động theo chỉ tiêu của đại hội đồng cổ đông, rồi chuyện lương thưởng và nhiều vấn đề khác, để rồi vẫn mạnh ai nấy làm. Bản chất của vấn đề nằm ở sự thiếu hụt vốn, thậm chí khá nghiêm trọng ở nhiều ngân hàng quy mô nhỏ. Thế mới hiểu cam kết cũng có năm bảy kiểu cam kết, lãi suất cũng có năm bảy đường lãi suất.

Nguyên nhân cuộc đua lãi suất

Thực tế là một số ngân hàng nhỏ, do nhu cầu phát triển tín dụng quá nhanh nên đã duy trì mức lãi suất huy động cao hơn mặt bằng chung của thị trường 1-2%/năm trong suốt gần một năm qua. Việc huy động lãi suất cao núp dưới các hình thức khuyến mãi như quà tặng, cào trúng thưởng bằng tiền mặt hay thỏa thuận lãi suất huy động thông qua việc cam kết thanh toán thêm khi khách hàng tất toán đúng hạn.

Thị trường méo mó suốt thời gian qua song không bùng lên thành cuộc đua do các ngân hàng không công khai, thông tin lãi suất huy động thỏa thuận không phổ biến rộng rãi, các ngân hàng nhỏ áp dụng lãi suất huy động thỏa thuận này chiếm chỉ vài phần trăm số dư huy động toàn hệ thống nên tác động đến thị trường không quá lớn.

Cuộc đua lãi suất chỉ bắt đầu khi Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Đức Thúy thay mặt Chính phủ thông báo định hướng điều hành lãi suất trong thời gian tới là “để lãi suất vận hành theo cơ chế thị trường” vào ngày 4-11-2010.

Một ngày sau đó, NHNN nâng LSCB đồng Việt Nam lên 9%/năm, phát đi tín hiệu thắt chặt tiền tệ khi GDP cả năm dự kiến chắc chắn sẽ đạt chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Phát pháo lệnh đã nổ, các ngân hàng “lén lút” thỏa thuận lãi suất huy động lâu nay đã công khai biểu lãi suất mới. Sức lan tỏa vô cùng lớn, cuốn cả hệ thống vào một cuộc đua mà đa phần bản thân các ngân hàng đều không mong muốn.

Khi thị trường chứng khoán vẫn lình xình, tảng băng bất động sản vẫn chưa tan, giá vàng đã tăng và đang duy trì ở mức quá cao không mang tính hấp dẫn để đầu tư, đô la Mỹ vẫn tăng giá nhưng lãi suất tiền gửi lại thấp nên tính ra vẫn không lợi bằng tiền đồng, vì vậy việc tăng lãi suất huy động tiền đồng đã có sức tác động lớn.

Thông tư 13/2010/TT-NHNN (Thông tư 13) quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD do NHNN ban hành hồi tháng 5-2010 cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng phải tăng cường công tác huy động vốn khi quy định tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động chỉ 80%, muốn tăng dư nợ buộc lòng phải tăng nguồn vốn huy động. Thông tư này cũng đưa ra tỷ lệ khả năng chi trả cho ngày hôm sau ở mức 15% mà trước đó Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN (Quyết định 457) không đề cập; yêu cầu các ngân hàng còn phải nắm giữ các giấy tờ có giá (GTCG) có tính thanh khoản cao. Tiền đâu để đáp ứng các yêu cầu này ngoài việc phải tăng cường huy động vốn?

Basel III quy định lộ trình thực hiện từ năm 2013 đến hết năm 2018 với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn 8% (không thay đổi từ Basel I đến Basel III) nhưng có một số thay đổi trong kết cấu vốn. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam lại phải đạt mức tối thiểu 9% trong thời gian hơn sáu tháng kể từ ngày Thông tư 13 ra đời rõ ràng là quá gấp khi so với lộ trình của Basel.

Mặt khác, Thông tư 13 đã nâng hệ số rủi ro quy đổi của các khoản cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay để đầu tư chứng khoán lên đến 250% so với mức tối đa 150% trước đây (cho vay đầu tư chứng khoán: 150%, bất động sản: 100%) khiến tỷ lệ an toàn vốn tụt xa khi tính theo quy định mới, đơn giản vì đây là những mảng cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ của các TCTD, đặc biệt là dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản.

Để đạt được tỷ lệ an toàn vốn mới, bên cạnh việc cơ cấu lại danh mục dư nợ (không thể thực hiện trong vài tháng) thì hướng gia tăng các tài sản có hệ số rủi ro quy đổi thấp (0-20%) như trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, tiền gửi liên ngân hàng là con đường bắt buộc của các TCTD. Tiền đâu để đáp ứng các yêu cầu này ngoài việc phải tăng cường huy động vốn từ thị trường dân cư, tổ chức?

Chưa hết, mới đây dự thảo thông tư quy định về hoạt động cho vay và mua, bán có kỳ hạn GTCG giữa các TCTD lại đem đến một nỗi lo nữa về nguồn vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng sẽ càng bó hẹp khi các TCTD không được gửi tiền và nhận tiền gửi lẫn nhau; chỉ được vay, cho vay và mua bán có kỳ hạn GTCG; hơn nữa tỷ lệ vốn huy động tối đa từ thị trường liên ngân hàng sẽ không quá 3 lần vốn tự có của ngân hàng thương mại. Không có con đường nào khác, vốn từ thị trường dân cư, tổ chức là nguồn sống của các TCTD hôm nay và cho sự tồn tại của ngày mai.
Cuộc đua lãi suất khi hội tụ những yếu tố như thế, xem ra đã có điều kiện cần và đủ.

Điều hành lãi suất, phải dùng luật

Ngày 8-12-2010, thị trường chứng kiến kỷ lục mới về lãi suất huy động công khai lên đến 17%/năm từ Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank), phá vỡ đồng thuận trước đó. Ngay lập tức, Techcombank bị NHNN cảnh báo, kiểm tra và Giám đốc NHNN chi nhánh TPHCM yêu cầu Tổng giám đốc Techcombank cách chức một giám đốc chi nhánh của ngân hàng này do không nghe lời cảnh báo và không hợp tác với đoàn kiểm tra.

Hành động của NHNN là cần thiết trước những yếu tố có thể phá vỡ sự an toàn hệ thống, nhưng không phải ai cũng đồng tình với sự can thiệp quá sâu của NHNN vào hoạt động của các TCTD. Dẫu Luật NHNN hiện hành (1997) và Luật NHNN 2010 (sắp có hiệu lực) cho phép sự can thiệp của NHNN trong những trường hợp cần thiết, nhưng rõ ràng hành động vừa qua của NHNN chỉ khiến các ngân hàng sợ chứ không phục, và không giải quyết được bản chất của vấn đề.

Lãi suất vượt rào công khai ở một ngân hàng thuộc nhóm trên như Techcombank là giọt nước làm tràn ly. Ngày 14-12-2010, NHNN triệu tập các hội viên của HHNH về Hà Nội để đi đến một đồng thuận nữa, lãi suất huy động lần này được đưa về mức tối đa 14%/năm bao gồm tất cả các hình thức khuyến mãi và thể hiện trong văn bản 9779/NHNN-CSTT của NHNN. Không còn kêu gọi mà thay vào đó là một văn bản điều hành của NHNN. Câu hỏi đặt ra là tại sao NHNN không dùng luật mà lại cứ ép các TCTD “đồng thuận” và còn đâu là quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh?

Tại sao NHNN vẫn cứ dùng các biện pháp hành chính để điều hành một thị trường cực kỳ nhạy cảm và là lĩnh vực cam kết hội nhập mạnh nhất khi Việt Nam gia nhập WTO? Trong khi LSCB là công cụ NHNN có trong tay, đi kèm với nó là các loại lãi suất khác đủ khả năng điều tiết thị trường mà lại đúng luật. Điều 476 Bộ luật Dân sự vẫn còn nguyên giá trị áp dụng đối với hệ thống các TCTD sao NHNN không sử dụng?

Phải chăng NHNN chỉ muốn giải quyết lãi suất huy động một cách nhất thời chứ không muốn nâng lên thành chính sách lâu dài một khi dùng đến LSCB, hay NHNN sợ bị dư luận chê khi quay về với công cụ mà chính NHNN đã hắt hủi, đã nhiều lần đề nghị Quốc hội bãi bỏ và khi soạn dự thảo Luật NHNN mới đã từng “im lặng” bỏ đi?

Điều 12 Luật NHNN 2010 cũng quy định: “Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng...”. Đây không phải là lúc thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, không phải là lúc NHNN cần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thì còn lúc nào nữa. Bên cạnh đó, Luật các TCTD 2010 cũng có hiệu lực vào ngày 1-1-2011 tới, tại điều 91 đã ghi rõ các TCTD được quyền ấn định lãi suất huy động mà không bị bất cứ sự ràng buộc nào. Như vậy, sau thời điểm này, làm sao đồng thuận lãi suất nữa đây?

Lê Duy Khánh

Friday, March 8, 2013

Từ lãi suất cơ bản đến lãi suất thỏa thuận


(TBKTSG) - Các đại biểu Quốc hội đang thảo luận về việc có nên bỏ hay không quy định về lãi suất cơ bản (LSCB) trong dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Vẫn còn hai luồng ý kiến trái chiều và xem ra để có một quyết định cuối cùng là điều không đơn giản.

Từ lãi suất cơ bản

Tôi vẫn còn nhớ cảm giác hân hoan của lãnh đạo Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) và các ngân hàng thương mại khi NHNN ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN gỡ bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26-2-2008.
 

Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% LSCB do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Rất nhiều mỹ từ đã được sử dụng để ca ngợi quyết định này của NHNN.

Bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký VNBA, nhận định: “Như vậy điều hành lãi suất đã đi đúng luật. Không còn con đường nào khác, các ngân hàng phải đi theo luật, không thể cứ lao theo thị trường mà bỏ qua luật. Cơ chế mới tạo điều kiện để các ngân hàng biết rằng anh đang hoạt động trong khung pháp lý nào” (1). Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam, nói: “Cuối cùng, ức chế đã được giải phóng” (2).

Tuy vậy, sự ca ngợi cũng không kéo dài được lâu, LSCB sau đó đã trở thành cái “vòng kim cô” trói buộc các TCTD trong hoạt động kinh doanh khi LSCB không theo kịp những điều chỉnh của thị trường. Cạnh tranh thông qua lãi suất, về bản chất đó là giá mua bán hàng hóa (ở đây là tiền) của một đơn vị kinh doanh, không còn trong khi đấy chính là yếu tố cạnh tranh chính của các ngân hàng trong điều kiện hiện nay. Mặc dù vậy, để duy trì sự ổn định của chính sách tiền tệ, tránh cuộc chạy đua lãi suất và thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, NHNN vẫn duy trì cơ chế điều hành lãi suất này cho đến ngày 26-2-2010. Đến ngày 14-4-2010, NHNN ban hành thông tư số 12/2010/TT-NHNN thì gần như tất cả các khoản vay đều thực hiện theo lãi suất thỏa thuận (LSTT).

Theo dự thảo Luật NHNN mới nhất, điều 12 ghi: “1. NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ. 2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác”. Theo cách viết này thì các nhà làm luật muốn đưa LSCB vào “các loại lãi suất khác” và NHNN chỉ công bố khi cần thiết, đó là khi thị trường tiền tệ có những diễn biến bất thường. Theo tôi, cách làm luật này có nhiều bất ổn.

Thứ nhất, dù các nhà làm luật có dụng ý gì thì bằng câu chữ, rõ ràng đã không còn tồn tại LSCB. Luật có thể tạo lối mở nhưng không thể muốn hiểu kiểu gì thì hiểu. Khi đưa vào áp dụng, các TCTD không biết rằng khi nào NHNN ban hành các loại lãi suất khác và đó là các loại lãi suất gì. Liệu có ban hành LSCB và khi đó LSCB giữ vai trò gì. Điều này tạo ra tâm lý bất an cho những nhà quản trị, điều hành ngân hàng, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường tiền tệ có biến động.
Khi Luật NHNN không còn LSCB thì quy định tại điều 476 của Bộ luật Dân sự hiện nay cũng không còn tác dụng, có thể đến một lúc nào đó sẽ bị bãi bỏ. Thị trường có thể rối loạn.

Vì vậy, việc bỏ LSCB theo tôi là không thể. Thực tế, trong suốt quá trình tồn tại của mình, LSCB chỉ có tác dụng trong việc thiết lập một mức lãi suất trần kinh doanh của các TCTD nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và hạn chế hoạt động cho vay nặng lãi trong xã hội, ngoài ra không có thêm vai trò nào khác. Cả hai vai trò này đều cần thiết và cần phải duy trì.

Tuy nhiên, làm sao giải được bài toán LSCB trở thành vòng kim cô kìm hãm hoạt động của các TCTD. Câu trả lời thật ra hết sức đơn giản. Mức lãi suất huy động và cho vay trên thị trường ngân hàng luôn phản ánh quy luật cung cầu vốn dù có tồn tại LSCB hay không. Trong điều kiện bình thường, giả sử mức lãi suất cho vay tiền đồng của các TCTD bình quân vào khoảng 15%/năm, mức lãi suất này đảm bảo cho các TCTD thu hút được nguồn tiền gửi, cân đối được thu chi và tiến độ giải ngân ổn định thì nếu NHNN công bố LSCB lên đến 20%/năm (tức lãi suất trần kinh doanh của các TCTD là 30%/năm) thì cũng không ảnh hưởng gì đến lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Cần lưu ý rằng LSCB không bao giờ là nguyên nhân của các cuộc chạy đua lãi suất, cũng không bao giờ là vòng kim cô nếu tình hình hoạt động của thị trường ngân hàng ổn định.

Như vậy, trong điều kiện bình thường, NHNN công bố mức LSCB nhằm mục tiêu hạn chế việc các TCTD và các quan hệ vay mượn khác trong xã hội rơi vào hoạt động cho vay nặng lãi, còn trong điều kiện thị trường tiền tệ có những bất ổn thì LSCB trở thành công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vậy tại sao phải bỏ?

Ở Việt Nam hiện nay, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (tương đương với discount rate - lãi suất chiết khấu và Fed funds rate - lãi suất cho vay để đảm bảo dự trữ bắt buộc của FED) mới là những công cụ có vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh trên thị trường tiền tệ. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian qua, hai loại lãi suất này không đóng vai trò điều tiết lãi suất kinh doanh của thị trường ngân hàng như mong đợi một phần vì các TCTD ở Việt Nam không nắm giữ nhiều các giấy tờ có giá, tâm lý ngại vay của NHNN và một phần quan trọng là NHNN chưa thực hiện tốt vai trò là người cho vay cuối cùng. Vì vậy, hai nhân vật chính này núp sau cánh gà còn “diễn viên phụ” là LSCB trở thành chủ nhân của sân khấu và dành trọn những lời khen chê từ “khán giả”.

Đến lãi suất thỏa thuận

Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của NHNN cho phép các TCTD cho vay theo LSTT và các TCTD thực hiện cho vay với mức lãi suất vượt 150% LSCB do NHNN công bố. Vậy, LSTT là muốn cho vay với lãi suất bao nhiêu cũng được, không còn bị ràng buộc bởi các quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành?

Lật lại hồ sơ thì LSTT lần đầu tiên được NHNN đề cập trong Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002 (Quyết định 546), trong đó ghi: “Nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay...”.

Quyết định này khi đó nhằm thay thế cho Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2-8-2000 vốn quy định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các TCTD không vượt quá mức LSCB và biên độ được NHNN quy định trong từng thời kỳ chứ không phải để gỡ trần do vướng Bộ luật Dân sự vì tại thời điểm đó Bộ luật Dân sự năm 1995 chưa đề cập đến LSCB.

Khoản 1, điều 473 của Bộ luật Dân sự 1995 chỉ ghi: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Như vậy, theo quyết định 546, LSTT có thể hiểu là lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng không phụ thuộc vào LSCB và NHNN cũng không còn công bố biên độ điều chỉnh.

Từ đó, chúng ta mang cách hiểu về LSTT của năm 2002 áp dụng cho năm 2010 khi điều kiện đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là pháp luật đã có những quy định cụ thể đòi hỏi chúng ta phải hiểu chính xác về LSTT. Việc hiểu không đúng về LSTT thời điểm này dẫn đến cả hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phạm luật. Khi Bộ luật Dân sự 2005 được thông qua, cần phải hiểu LSTT là lãi suất được thỏa thuận giữa người đi vay và cho vay nhưng không trái với các quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, khi LSCB tháng 5-2010 đang là 8%/năm, lãi suất kinh doanh của các TCTD không thể vượt quá 12%/năm.

Bộ luật Dân sự hiện hành vẫn còn đó điều khoản về lãi suất, để có thể thay đổi thì ít nhất cần có một Nghị quyết của Quốc hội điều chỉnh nội dung này. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ tư ngày 6-11-2008 có đề cập: “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả cao”.

Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu LSTT này như thế nào? Không thể hiểu LSTT là lãi suất bao nhiêu cũng được vì nghị quyết không hề giải thích như vậy. Hiểu LSTT theo Quyết định 546 là lãi suất được tự do thỏa thuận, không phụ thuộc vào LSCB cũng không được vì như đã đề cập, quyết định này ban hành khi Bộ luật Dân sự 2005 chưa ra đời, khi đã có Bộ luật Dân sự 2005, Quyết định 546 không thể được giải thích trái với một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao hơn.

Như vậy, điều quan trọng nhất là gì khi nói đến LSTT? Đó là một lời giải thích rõ ràng ở một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị ngang bằng hoặc cao hơn Bộ luật Dân sự hiện hành. Khi chưa có giải thích, chỉ có thể hiểu LSTT theo Quyết định 546, một cách hiểu không còn phù hợp. Do đó, khi một khách hàng kiện một TCTD ra tòa vì cho vay vượt 150% LSCB ở thời điểm hiện tại, tôi tin phần thắng sẽ thuộc về khách hàng.

Cuối cùng, chúng ta thấy rằng LSCB và LSTT có thể tồn tại song hành và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, trong hoạt động kinh doanh của các TCTD và chi phối các quan hệ vay mượn dân sự nói chung trong toàn xã hội. Đối với LSCB, cần một cách hiểu đúng để có cách điều hành phù hợp. Đối với LSTT, cần một định nghĩa rõ ràng để thị trường tiền tệ được vận hành thông suốt. Có như vậy, các đại biểu Quốc hội mới có thể nhẹ lòng khi nhấn nút thông qua Luật NHNN sửa đổi vào ngày 16-6 này.
.
_____________________________________________
(1), (2) Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 19-5-2008.

Lê Duy Khánh

Nỗi lo mang tên nhập siêu và đầu tư công

(TBKTSG) Khi còn làm trong một doanh nghiệp nhà nước ngành dệt may cách đây sáu năm, có dịp tiếp xúc với những nhà nhập khẩu nước ngoài, tôi mới biết rằng so với Trung Quốc thì hàng may mặc của Việt Nam chỉ có một lợi thế duy nhất, đó là chất lượng cao hơn.

Lợi thế của hàng xuất khẩu ở đâu?

Nhà nhập khẩu tìm đến Việt Nam chính vì người công nhân Việt Nam thật sự khéo léo, dù họ biết rằng đặt hàng ở đất nước này là chấp nhận đối mặt với những vấn đề nan giải, đó là luôn giao hàng trễ, điều kiện thanh toán khó khăn (hầu hết đều yêu cầu đặt cọc trước khi sản xuất, thanh toán đủ trước khi xuất hàng), giá cả khó cạnh tranh, thủ tục hải quan phiền hà…

Mới đây gặp lại trưởng phòng cũ, anh nói rằng điều kiện thanh toán vẫn vậy, giá cả cũng thế (vì nhập khẩu gần hết nguyên phụ liệu gồm sợi, hóa chất, chỉ, nút, nhãn… từ Trung Quốc rồi), còn giao hàng thì không thay đổi được. Anh giải thích việc giao hàng trễ rằng, khi khách hàng đến tiếp xúc đặt vấn đề, công ty sẽ triệu tập cuộc họp gồm lãnh đạo của tất cả các công đoạn. Phòng nhập khẩu sợi cho rằng họ cần 30 ngày để hàng về đến kho, phân xưởng dệt cần một tuần, nhuộm cần 10 ngày, may cần 30 ngày…Tổng hợp ý kiến từ các đơn vị là đơn hàng cần khoảng thời gian 80-90 ngày để hoàn thành. Trong khi đó, khách hàng yêu cầu giao hàng trong vòng hai tháng. Đàm phán rơi vào bế tắc.

Mấy ngày sau, khách hàng quay lại đặt hàng vì không tìm được chỗ nào thực hiện đơn hàng nhanh hơn. Phòng kinh doanh nhận đơn hàng và triển khai xuống các đơn vị. Ngay trong ngày, phòng nhận được liên tiếp ý kiến từ các đơn vị và phân xưởng. Phòng nhập khẩu thông báo rằng lô sợi hỏi giá hôm trước, nay vì ngưng một tuần nên họ bán rồi, giờ đặt hàng phải chờ lô sản phẩm mới, dệt cho rằng nếu sợi nhập trễ như vậy thì máy móc của họ bỏ lâu sẽ phải tiến hành vệ sinh lại, chạy thử thì thời gian dệt sẽ lên thành 10 ngày thay vì bảy ngày như trước, xưởng may thì cho rằng dạo này công nhân nghỉ thai sản nhiều quá do năm này là năm heo vàng, mèo vàng… Vậy là quá trình đàm phán để lùi ngày giao hàng phải tiến hành từ lúc đơn hàng mới bắt đầu.

Tổng cục Hải quan thống kê giá trị xuất khẩu hàng dệt may trong tháng 3-2011 là 1,09 tỉ đô la Mỹ, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong quí 1-2011 lên 2,88 tỉ, tăng 31,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, không có con số thống kê cho biết trong tổng kim ngạch xuất khẩu này, bao nhiêu là hàng gia công, bao nhiêu là hàng mang nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam, bao nhiêu là hàng của Việt Nam nhưng mang các nhãn hiệu nổi tiếng của nước ngoài...Tuy vậy, có thể khẳng định rằng loại thứ nhất và thứ ba là chủ yếu bởi có mấy doanh nghiệp Việt Nam có thể tự xuất được hàng của mình ra nước ngoài?

Xúc tiến xuất khẩu bằng cách nào?

Ngày đó, là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc tập đoàn Dệt may nên hầu hết các đoàn công tác của tập đoàn ra nước ngoài đều có đủ lãnh đạo của các doanh nghiệp thành viên. Tổng giám đốc đi công tác mà công ty băn khoăn vì sếp không biết ngoại ngữ, đi một mình theo đoàn thì tiếp thị bằng cách nào. Công ty cũng chưa có đối tác nào ở thị trường đó thì sếp có thể gặp ai, trao đổi với ai?

Ngày trở về, tổng giám đốc “quăng” cho phòng kinh doanh một cái hợp đồng, khách hàng mua của công ty số lượng hàng trị giá gần một triệu đô la Mỹ. Cả công ty tròn mắt ngạc nhiên, thán phục. Chỉ có trưởng phòng là hiểu, lẳng lặng bỏ cái hợp đồng vào tủ, khóa lại. Hỏi anh sao không xúc tiến, triển khai một đơn hàng lớn như vậy. Anh bảo rằng mỗi năm anh vẫn nhận được vài cái hợp đồng như vậy, vì mỗi năm sếp đi nước ngoài vài lần. Khách hàng không biết là ai mà mạnh tay thế, chưa biết công ty mình ra sao, hàng hóa thế nào… mà đã đặt hàng cả triệu đô?! Mà thật lạ, sau đó cũng không hề nghe tổng giám đốc hỏi thăm về cái hợp đồng “khủng” mà chính sếp đã giao.

Lợi thế cạnh tranh là vậy, lãnh đạo doanh nghiệp là vậy, lo cho nhập siêu thì biết lo đến bao giờ?

Thái độ ngược chiều với cắt giảm đầu tư công

Trên thế giới, việc cắt giảm đầu công tư luôn được các chính phủ cân nhắc hết sức cẩn thận. Mặc dù vậy, khi được ban hành, gần như chúng đều vấp phải sự phản đối của công chúng. Chỉ riêng ở Việt Nam, mỗi khi Chính phủ công bố cắt giảm chi tiêu công, toàn dân lại hồ hởi và đồng thuận cao.

Tháng 4-2011, người dân Ukraina xuống đường biểu tình vì chính phủ tuyên bố sẽ cắt giảm ngân sách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu. Tháng 3-2011, người dân Bồ Đào Nha biểu tình phản đối những biện pháp “thắt lưng buộc bụng” của chính phủ nước này. Cũng vào cuối tháng này hàng ngàn người ở thủ đô London đã biểu tình để phản đối những biện pháp cắt giảm chi tiêu của Chính phủ Anh. Trước đó, năm 2010, người dân các quốc gia như Tây Ban Nha, Đan Mạch cũng xuống đường, hô vang các khẩu hiệu đòi chính phủ tăng ngân sách, phản đối chính sách cắt giảm chi tiêu công vì cho rằng việc cắt giảm này ảnh hưởng đến việc làm và đời sống của họ.
Ở các nước này, nền kinh tế đã phát triển cao, nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất thế giới. Cơ sở hạ tầng và đời sống người dân ở mức mà chúng ta mơ ước. Vậy mà người dân vẫn biểu tình để đòi quyền lợi. Việc biểu tình có vẻ như họ khá “ích kỷ”, không chia sẻ với những nỗi lo của chính phủ vốn vẫn đang khó khăn vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, thậm chí nhiều chính phủ đang ở bên bờ vực phá sản?

Ở Việt Nam, một đất nước mới thoát khỏi tình trạng của một nước nghèo, tuy vậy sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn dẫn đến tình trạng có người ăn sáng tô phở nấu bằng bò Kobe giá 750.000 đồng nhưng có người thu nhập chưa đến 10.000 đồng/ngày. Hạ tầng đô thị ở mức yếu kém, cắt điện luân phiên, kẹt xe mỗi ngày ở các đô thị lớn, bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải… Vì vậy, đầu tư công càng nhiều sẽ càng giúp Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao phúc lợi và đời sống cho người dân, giúp người dân có điều kiện tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiên tiến. Vậy tại sao người dân lại khuyến khích cắt giảm ngân sách? Việc hồ hởi khi cắt giảm đầu tư công không hẳn vì chia sẻ với khó khăn của Chính phủ, thái độ đối với đầu tư công ngược chiều giữa Việt Nam và các nước chỉ có thể được giải thích bởi hai chữ niềm tin.

Dân chúng các nước tin vào hiệu quả của đầu tư công, tin rằng những đồng tiền từ ngân sách luôn được tiêu xài hợp lý, đúng nơi, đúng chỗ nên việc cắt giảm ngân sách sẽ bớt đi những công trình hữu ích, việc làm của họ sẽ bị ảnh hưởng, phúc lợi sẽ bị thu hẹp. Còn ở Việt Nam, người dân tin rằng bớt đầu tư công là bớt đi lãng phí, bớt đi tham nhũng, bớt đi những hoạt động vô bổ, bớt đi những công trình vô ích và bớt đi những kỷ lục vô nghĩa.

Hiệu quả đầu tư công quá thấp, các công trình có vốn đầu tư từ ngân sách kéo dài do chậm tiến độ nhiều năm, những công trình đồ sộ vừa xây xong đã hư hỏng nặng, những công trình bị rút ruột đến vài ba chục phần trăm, những công trình chạy đua kỷ niệm ngày này, ngày kia rồi khánh thành xong thì đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng… Tiêu biểu cho những kiểu đầu tư này là quốc lộ 91B qua Cần Thơ, cầu Thăng Long, đường Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hà Nội… Hay kể từ ngày có vụ Vinashin, doanh nghiệp này trở thành một ví dụ điển hình cho việc tiêu xài hoang phí những đồng tiền ky cóp để đóng thuế của nhân dân.

Kể từ khi Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát ra đời, cả xã hội dồn sự chú ý về chính sách tài khóa để mong chi tiêu công cắt giảm càng nhiều… càng tốt! Con số công bố ban đầu 3.400 tỉ đồng được cho là quá ít thì mấy ngày gần đây, con số cắt giảm có thể lên đến 97.000 tỉ đồng lại sinh nghi ngờ. Con số này có thể chưa dừng lại, nhưng giả sử không cắt giảm, rõ ràng chúng ta đã lãng phí không ít tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Vì vậy, có ý kiến còn đề xuất mỗi năm phải rà soát và cắt giảm chứ không phải chỉ làm mỗi năm nay bởi “lãng phí, tham nhũng, rút ruột còn… nhiều lắm”!?
Còn ở Việt Nam, người dân tin rằng bớt đầu tư công là bớt đi lãng phí, bớt đi tham nhũng, bớt đi những hoạt động vô bổ, bớt đi những công trình vô ích và bớt đi những kỷ lục vô nghĩa.
Nhập siêu và đầu tư công lãng phí đúng là những nỗi lo. Lo vì một ngành công nghiệp phụ trợ èo uột để đến nỗi một doanh nghiệp nước ngoài phải than rằng họ đi hết 20 doanh nghiệp Việt Nam mà không mua nổi một cái ốc vít. Lo vì mỗi năm tiền đồng lại mất giá thêm vài phần trăm mà 20 năm qua Việt Nam vẫn liên tục nhập siêu. Lo vì mỗi năm lại có thêm nhiều công trình to nhất, dài nhất, cao nhất nhưng chất lượng thì đáng nghi ngờ nhất. 

Tuy vậy, đó không phải là những nỗi lo duy nhất, Thanh Hóa hơn 240.000 nhân khẩu đang thiếu đói, đất đai dành cho nông nghiệp ngày càng teo tóp bởi khu công nghiệp, khu đô thị và sân golf. Mùa mưa với bình quân hơn 10 cơn bão mỗi năm và hàng trăm người chết, hàng trăm tàu thuyền bị chìm đang đến gần với dải đất miền Trung. Người dân Tây Nguyên mùa lũ phải đu dây qua sông, miền Tây mùa nước nổi mà cầu khỉ vẫn còn…

Không chỉ có nhập siêu và đầu tư công, nỗi lo còn nhiều lắm!

Lê Duy Khánh