Friday, October 25, 2013

Đằng sau cuộc đua giảm lãi suất cho vay



Bài đăng trên TBKTSG số 41-2913 và Saigontime Weekly số 42-2013.
 
Chúng ta đang đi vào những tháng cuối cùng của năm 2013 để kết thúc giai đoạn 2 của quá trình tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM). Nhìn lại 3 năm đã qua của quá trình tái cơ cấu, nhiều người băn khoăn, liệu quá trình này đã đi đúng hướng, đã kịp tiến độ? Thật khó có câu trả lời thỏa đáng, nhưng điều có thể dễ nhận thấy là các NHTM hiện này lại đang lao vào một “cuộc đua lãi suất”mới, nhưng ngược với trước đây, là đua giảm lãi suất cho vay. Đằng sau cuộc đua này là gì, và liệu nợ xấu có tăng cao hơn nữa?
Chỉ tiêu kinh doanh đè nặng
Mô hình sau cho chúng ta cái nhìn tổng quan về những hoạt động đầu tư của một NHTM. Từ nguồn vốn bao gồm chủ yếu là nguồn tiền gửi của khách hàng, cùng một phần nhỏ là nguồn vốn tự có và vốn huy động khác (vốn vay NHTW, vay và tiền gửi của các TCTD khác…), NHTM sử dụng để dự trữ thanh khoản, cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư khác. Trong đó, với một NHTM, tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng tài sản vẫn thường chiếm tỷ trọng khoảng 50-70%.
Như vậy, với tỷ trọng các khoản cấp tín dụng chiếm phần lớn trong tổng tài sản, có thể nói rằng cấp tín dụng là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của NHTM. Vì vậy, nhìn vào bảng kết quả kinh doanh của một số NHTM đến 30/6/2013 ở mảng cấp tín dụng, chúng ta sẽ thấy được gần như đầy đủ nguyên nhân của cuộc đua giảm lãi suất cho vay hiện nay:
ĐVT: triệu đồng
Ngân hàng
Dư nợ
Tổng tài sản
Tiền gửi khách hàng
Thu từ lãi và tương tự
30/12/2012
30/6/2013
30/12/2012
30/6/2013
30/12/2012
30/6/2013
6 tháng 2012
6 tháng 2013
CTG
   331,935
   333,248
   503,192
   521,955
     289,597
     307,531
        27,261
        22,761
VCB
   239,773
   236,176
   414,241
   436,252
     285,096
     305,746
        16,513
        14,489
ACB
   101,832
   109,600
   175,196
   168,325
     126,679
     142,631
        12,655
          8,031
TCB
     68,261
     69,864
   177,935
   169,542
     112,544
     113,081
          9,716
          7,002
MSB
     28,943
     27,276
   109,923
   108,655
       59,586
       66,155
          6,862
          4,395
(Nguồn: tổng hợp từ báo cáo tài chính của các NHTM)
Dù không mang tính đại diện, nhưng những ngân hàng được khảo sát đều là những ngân hàng lớn của Việt Nam. Số liệu cho thấy từ đầu năm đến nay, dư nợ tín dụng của các NHTM này hầu như không tăng trưởng, thậm chí còn giảm sút như VCB hay MSB. Thu nhập từ lãi và các khoản tương tự ở tất cả các ngân hàng khảo sát trong 6 tháng đầu năm 2013 đều sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2012, đặc biệt ở ACB, CTG. Sự sụt giảm này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh chung của từng ngân hàng.
Trong điều kiện hiện tại, dư nợ tín dụng không tăng/tăng ít nhưng thu nhập từ lãi giảm sút có thể là nguyên nhân của tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng, dẫn đến nhiều khoản cho vay không thu hồi được tiền lãi. Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất cho vay giảm mạnh, các NHTM buộc phải điều chỉnh giảm lãi suất đối với các khoản dư nợ hiện hữu và những khoản giải ngân mới, bao gồm những khoản giải ngân sau khi trả nợ cũ của những món vay theo hạn mức tín dụng.
Ở chiều ngược lại, tiền gửi khách hàng vẫn tăng trong 6 tháng đầu năm ở tất cả các ngân hàng được khảo sát, tạo ra áp lực về việc sử dụng vốn hiệu quả khi năm 2013 đến nay chỉ còn hơn 3 tháng. Thực tế nguồn vốn bị ứ đọng ở nhiều NHTM không chỉ nay mới xảy ra, chính áp lực về việc sử dụng nguồn tiền gửi của khách hàng có hiệu quả đã dẫn đến việc ACB và nhiều NHTM khác ủy thác cho nhân viên của mình gửi tiền ở các NHTM khác với lãi suất cao và phải đối mặt với nhiều rủi ro.
Trong khi đó, các kênh đầu tư khác của NHTM cũng không đem lại hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Cho vay liên ngân hàng từ ngày Thông tư 21/2012/TT-NHNN có hiệu lực đã không còn sôi động như trước. Các NHTM có nợ quá hạn trên thị trường liên ngân hàng cũng không được vay vốn vì khả năng chi trả và vì những qui định của NHNN tại thông tư này. Giảm lãi suất cho vay đối với dân cư và các tổ chức về mức 8-10%/năm vẫn tốt hơn nhiều so với việc gửi tiền/cho vay các NHTM khác, hiện chỉ ở mức 3-4%/năm. Việc thu lợi lớn của nhiều NHTM từ thị trường liên ngân hàng khi hệ thống bất ổn đã không còn như những năm trước.
Hoạt động của ngân hàng đầu tư như góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh chứng khoán không phải là hoạt động chính của NHTM. Hơn nữa, thị trường chứng khoán trong điều kiện hiện nay không tạo ra nhiều cơ hội để NHTM có thể sinh lời từ hoạt động bị hạn chế này, đặc biệt là từ sau khi Luật các TCTD 2010 ra đời, tách các hoạt động này ra khỏi hoạt động trực tiếp của NHTM.
Với các NHTM, ở một khía cạnh nào đó, trong khó khăn luôn tồn tại những cơ hội, và thị trường này có thể là môi trường tốt để các ngân hàng sàng lọc, nắm bắt và chiếm lĩnh thị phần. Chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra thu hẹp là tất yếu của cạnh tranh và không thể tránh khỏi, các NHTM biết điều đó. Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là gia nhập cuộc đua để được một phần nào đó hơn là chọn cách đứng bên lề.
Thực tế hiện nay, để gia tăng thu nhập, con đường các NHTM cần phải tính đến đầu tiên là tăng trưởng tín dụng. Hơn thế nữa, các NHTM cần có con số để “phân chia” thị phần từ NHNN vào năm sau, nếu NHNN vẫn tiếp tục duy trì cơ chế phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng như hiện nay.
Thiệt hại thuộc về ai?
Sự cạnh tranh về lãi suất rõ ràng không cân sức khi xét theo nhóm ngân hàng, và phần thiệt hại luôn thuộc về khối cổ phần. Còn xét trong khối cổ phần thì phần thiệt hại hơn sẽ thuộc về các ngân hàng nhỏ.
Sẽ thật khó hiểu với những gói lãi suất rất thấp mà các ngân hàng như VCB, Vietinbank đang thực hiện, khi nhiều doanh nghiệp cho biết họ vay vốn tại các ngân hàng này với lãi suất chỉ 6%/năm. Còn những gói lãi suất 7-8%/năm hiện khá phổ biến, áp dụng cả cho những sản phẩm trung dài hạn như vay mua xe ôtô, mua nhà…ở cả những ngân hàng nhỏ. Đối với nhóm tứ đại gia (VCB, Vietinbank, Agribank và BIDV), mức lãi suất cho vay hiện nay không làm họ thua lỗ nhờ giá vốn thấp (bình quân tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng này ở mức 25% tổng tiền gửi của khách hàng, lãi suất có kỳ hạn 1-6 của các ngân hàng này hiện cũng không còn bám trần lãi suất). Tuy nhiên, cho vay ở mức 7-8% thì các NHTM nhỏ cầm chắc thua lỗ vì lãi suất trần tiền gửi dưới 6 tháng hiện đã 7%/năm (mà hiện họ vẫn bám trụ), chưa tính chi phí hoạt động, bảo hiểm tiền gửi, dự trữ (thanh khoản và bắt buộc tại NHNN), chi phí dự phòng chung…). Tuy nhiên, các mức lãi suất ưu đãi này đều thuộc các chương trình khuyến mãi, áp dụng cho 3-6 tháng đầu tiên. Như vậy, các ngân hàng đang chấp nhận hòa vốn hoặc thậm chí lỗ trong 3-6 tháng đầu của hợp đồng vay và sẽ “thu lại” sau khi hết thời gian ưu đãi.
Vì vậy, điều khách hàng vay cần lưu ý là lãi suất sẽ được thay đổi như thế nào sau thời gian khuyến mãi. Thông thường, mức lãi suất này sẽ bằng lãi suất tiền gửi của cá nhân, kỳ hạn 12 hoặc 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ cộng với một biên độ nhất định, thường ở mức tối thiểu 3%/năm. Nếu dựa theo mức lãi suất của VCB hiện tại, sau khi hết thời gian ưu đãi, lãi suất áp dụng cho khách hàng vay khoảng 10,5%/năm. Đây là mức lãi suất có thể chấp nhận được và có thể giảm thêm trong thời gian tới (dù có thể không nhiều). Tuy nhiên, nếu không rõ ràng trong vấn đề này, phần thiệt hại sẽ thuộc về người vay một khi số tiền đã giải ngân.
Trong cuộc đua này, khách hàng vay có thể là người chịu thiệt cuối cùng bởi các NHTM sẽ không bao giờ chấp nhận thua lỗ, mọi khoản giảm lãi suất đều đã được tính toán để bảo đảm mức sinh lời hợp lý cho cả chu kỳ kinh doanh. Còn với người sử dụng vốn vay, 10 năm vay vốn mua nhà rõ ràng không gọi là ưu đãi nếu chỉ giảm lãi suất đối với 3-6 tháng đầu tiên.
Số ảo và …nợ xấu?
Có nhiều cách để tăng trưởng tín dụng. Nhưng những cách tăng trưởng hiện nay đang tạo ra số dư ảo và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Vàng không còn được nhận như là tiền gửi, không còn được nhận giữ hộ nhưng có thể là một tài sản thế chấp thông thường. Nhiều NHTM đang nhận thế chấp vàng như là tài sản bảo đảm thông thường để cho vay tiền đồng với lãi suất 7-8%/năm. Nguồn tiền vay này giúp gia tăng dư nợ của ngân hàng nhận vàng thế chấp, đồng thời có thể giúp ngân hàng khác gia tăng tiền gửi một khi dòng tiền vay này lại được gửi vào một ngân hàng khác.
Nhiều NHTM (đặc biệt là các NHTM Nhà nước) đang áp dụng các gói lãi suất đặc biệt ưu đãi. Lãi suất cho vay ngắn hạn có thể chỉ khoảng 6%/năm như đã đề cập. Điều này gợi nhớ lại gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm mà NHNN đã từng áp dụng vào các năm 2009-2010, khi đó đã đưa mức lãi suất cho vay về 5-6%/năm. Điều này có thể lại tạo con số gia tăng “ảo” khi dòng tín dụng không đến với nền kinh tế mà chỉ lòng vòng trong hệ thống ngân hàng.
Nhiều khách hàng hiện nay không mặn mà với việc vay vốn, bởi vay không biết để làm gì dù lãi suất đã khá thấp. Tất nhiên, những người làm kinh doanh ngân hàng biết điều đó. Chính vì thế mà cấp tín dụng qua thẻ đang được các ngân hàng ráo riết đẩy mạnh. Loại hình cho vay này đáp ứng được thực tế “vay không biết để làm gì” của khách hàng, và ngân hàng cũng không quan tâm mục đích sử dụng vốn ngoài mục đích chung là vay tiêu dùng. Khi một số tiền luôn sẵn sàng bên cạnh, khả năng khách hàng móc hầu bao cho các hoạt động chi tiêu là rất có thể. Tuy vậy, loại hình cho vay này luôn tiềm ẩn rủi ro cao mà vừa qua, chính NHNN đã phải lên tiếng cảnh báo các NHTM khi đẩy mạnh nghiệp vụ này.
Không ồ ạt và dễ dãi như trước, nhưng cuộc chạy đua tăng trưởng tín dụng lần này cũng tạo ra những lo ngại. Một khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đè nặng lên nhân viên kinh doanh và cả hệ thống, nợ quá hạn sẽ có cơ hội phát sinh. Sự giành giật khách hàng giữa các NHTM trên thị trường hiện rất gay gắt, điều mà những người trong ngành có thể cảm nhận rõ ràng. Vì vậy, hạ chuẩn hoặc lách qui định để cho vay là hoàn toàn có thể.
Với những nhân viên kinh doanh, áp lực chỉ tiêu để có lương, thưởng cuối năm, thậm chí chỉ để bảo đảm cho vị trí công việc trước áp lực bị sa thải, họ buộc phải lao vào cuộc cạnh tranh mà rủi ro có thể sẽ tiếp tục bị xem thường. Thực tế đã chứng minh, sau thời kỳ tăng trưởng tín dụng dễ dãi, hệ thống ngân hàng phải mất một thời gian dài để xử lý. Hi vọng việc gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong một vài tháng gần đây không phải là chỉ báo cho điều đó, vì như thế là quá sớm.

Saturday, October 19, 2013

Đằng sau một thương vụ sáp nhập

Bài viết đăng trên TBKTSG, trang 64-65, bản giấy tại đây. Các bạn phải đăng ký để đọc. Còn đây là bản gốc.


Thị trường ngân hàng sẽ sớm chứng kiến một thương vụ sáp nhập nữa giữa Ngân hàng phát triển Tp.HCM (HDBank) và Ngân hàng Đại Á (Daiabank), có lẽ vào đầu năm 2014. Bài viết này nhìn lại diễn tiến của vụ việc cùng một vài phân tích về hoạt động kinh doanh của hai ngân hàng trong thời gian qua để tìm câu trả lời cho hai câu hỏi: (i) vì sao Daiabank chịu mất thương hiệu; và (ii) đây có phải là thương vụ sáp nhập giữa hai ngân hàng “sạch” để tạo thành một ngân hàng tốt hơn như nhiều thông tin thời gian qua.
Tiến trình vụ việc
Tháng 10-2012, thông tin về việc hợp nhất giữa HDBank và Daiabank được một số tờ báo đăng tải, thậm chí đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh Tp.HCM cũng đã lên tiếng xác nhận về việc NHNN chấp thuận chủ trương này. Tuy nhiên, đại diện các ngân hàng lúc đó đều bác bỏ, HDBank cho rằng những thông tin về việc hợp nhất không phải là thông tin chính thức từ họ, còn đại diện Daiabank thì nói đầy ẩn ý “Cho đến nay, Hội đồng quản trị Daiabank vẫn đang xem xét và chưa có quyết định”. Thực tế, tại thời điểm này, Hội đồng quản trị (HĐQT) của hai ngân hàng đã ký thỏa thuận ghi nhớ về chủ trương sáp nhập, hợp nhất hai ngân hàng và đã báo cáo NHNN.
HDBank và Daiabank cùng đăng ký tổ chức Đại hội cổ đông bất thường vào ngày 30/10/2012 càng làm cho những thông tin trước đó về hợp nhất là có cơ sở. Tuy nhiên, sau đó các thông tin về vụ hợp nhất được cả hai bên cố tình không đề cập. Cuộc thương lượng để hiện thực hóa chủ trương có lẽ đã không dễ đi đến đồng thuận khiến Daiabank phải kéo dài đến ngày 9/5/2013 mới có thể tổ chức được Đại hội cổ đông thường niên năm 2013 (dù Luật các TCTD 2010 qui định phải tổ chức trong vòng 4 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính), nhưng cũng không thành công. Tỷ lệ 52,42% số cổ đông tham dự cho thấy nhóm cổ đông mới, thế chân vào nhóm cổ đông của ACB, đã nắm giữ một tỷ lệ cổ phần khá lớn và có quyền chi phối ngân hàng này.
Quá trình thương thảo tiếp tục kéo dài. Mọi thứ chỉ trở nên rõ ràng khi lần lượt chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc của Daiabank được thay bằng người của HDBank hoặc Sovico (tập đoàn mẹ của HDBank) vào 6/2013 sau Đại hội cổ đông thường niên lần 2, với 100% cổ đông Daiabank đồng ý chủ trương sáp nhập vào HDBank. Trước đó, tháng 5/2013, Daiabank cũng đã một lần thay Tổng giám đốc, đánh dấu sự chia tay của nhóm cổ đông ACB với Daiabank
Đến cuối tháng 9/2013, cả hai ngân hàng đều tổ chức Đại hội cổ đông bất thường, đi đến thống nhất sáp nhập Daiabank vào HDBank, sẽ hình thành nên một ngân hàng nằm trong tốp 10 trong khối cổ phần xét về tổng tài sản, chấm dứt sự tồn tại 20 năm của thương hiệu Daiabank
Quá trình hình thành và phát triển của hai ngân hàng
HDBank được thành lập năm 1990, với vốn điều lệ ban đầu 3 tỷ đồng. Trải qua 12 lần tăng vốn, hiện HDBank có mức vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng và hơn 120 điểm giao dịch trên cả nước.
Đứng sau HDBank là tập đoàn Sovico Holdings. Đây là tập đoàn đầu tư đa ngành, tham gia vào các lĩnh vực tài chính – ngân hàng, chứng khoán, năng lượng, bất động sản, hàng không với hàng loạt các công ty con và liên kết. Theo website của tập đoàn này, Sovico Holdings hiện là cổ đông chính (lớn nhất) của HDBank. Bà Nguyễn Thị Phương Thảo, người sáng lập của Sovico hiện nắm giữ vị trí Phó chủ tịch thường trực HĐQT HDBank. Chính sự tham gia của Sovico đã đem lại cho HDBank sự phát triển như ngày hôm nay, nhưng đi kèm với đó có thể là những rủi ro về sự chi phối của nhóm lợi ích đối với hoạt động ngân hàng.
Trong khi đó, Daiabank là một ngân hàng tỉnh lẻ, xuất thân là ngân hàng TMCP nông thôn, có trụ sở chính tại tỉnh Đồng Nai. Khai trương từ tháng 7/1993 với vốn điều lệ 1 tỷ đồng. Năm 2001, Quỹ tín dụng Quang Vinh sáp nhập vào Daiabank và tăng vốn điều lệ lên 8 tỷ đồng. Tháng 10/2007, Daiabank chuyển đổi mô hình, trở thành ngân hàng TMCP đô thị. Hiện Daiabank có vốn điều lệ 3.100 tỷ đồng với khoảng 70 điểm giao dịch trên cả nước.
Trong quá trình phát triển của ngân hàng này, có sự tham gia góp vốn và quản trị của nhiều tổ chức kinh tế như BIDV, ACB, công ty cao su Đồng Nai, công ty ôtô Trường Hải, công ty xổ số kiến thiết Đồng Nai…Những cột mốc đáng nhớ nhất của Daiabank là quá trình chuyển mình từ một ngân hàng TMCP nông thôn với qui mô nhỏ, chỉ hoạt động trong địa bàn tỉnh Đồng Nai trở thành ngân hàng TMCP đô thị và mở rộng mạng lưới ra cả nước. Cùng với áp lực tăng vốn ở hai giai đoạn, 1.000 tỷ đồng năm 2008 và 3.000 tỷ đồng năm 2010, Daiabank đã buộc phải có sự tham gia của nhóm cổ đông bên ngoài (trong đó có nhóm cổ đông ACB). Năm 2012, sau sự kiện Bầu Kiên bị bắt, nhóm cổ đông này thoái vốn, và Daiabank đã phải lựa chọn kịch bản hợp nhất như ngày hôm nay.
Hoạt động kinh doanh của hai ngân hàng
Tổng tài sản của HDBank đã tăng lên rất nhanh, so với năm 2006, tổng tài sản của HDBank đã tăng 13 lần trong 6 năm, lên mức 52.783 tỷ đồng cuối năm 2012. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu lại không có được mức tăng ấn tượng như vậy, chỉ khoảng 7,67 lần trong cùng khoảng thời gian. Năm 2007, HDBank đã phải sử dụng một lượng lớn vốn ngắn hạn từ thị trường liên ngân hàng để tài trợ cho các hoạt động cho vay. Tuy nhiên, tình hình đã có sự cải thiện đáng kể khi số dư tiền gửi và cho vay các tổ chức tín dụng (TCTD) khác hiện đã cân bằng với số dư nhận tiền gửi và vay các TCTD khác.
Ba khoản mục đáng chú ý của HDBank trong bảng cân đối tài sản, thể hiện danh mục đầu tư của ngân hàng này chứa đựng nhiều rủi ro là dư nợ cho vay, chứng khoán đầu tư và tài sản Có khác. Ba khoản mục này có sự gia tăng bất thường trong ba năm trở lại đây.
Dư nợ của HDBank đạt tốc độ tăng trưởng bình quân lên đến 38% trong giai đoạn 2010 – 2012, giai đoạn mà nền kinh tế gặp khó khăn và tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành khá thấp. Đặc biệt, năm 2012, khi tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống chỉ đạt 8,6% thì HDBank đạt tốc độ tăng trưởng lên đến 53%. Đáng chú ý trong số này, 45% dư nợ được dồn vào các hoạt động rất khó đoán định mục đích cụ thể là gì (hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng), 8,6% dành cho các hoạt động xây dựng và kinh doanh bất động sản. Tổng các khoản này chiếm hơn 50% dư nợ của HDBank.
Chứng khoán đầu tư của ngân hàng cũng chiếm tỷ lệ khá cao, 22% tổng tài sản và hơn 50% nếu so với tổng dư nợ tín dụng. Trong số này, 31% (tương ứng 3.587 tỷ đồng) đầu tư vào trái phiếu công ty mà bản chất là những khoản cho vay.
Một khoản mục khác, chiếm tỷ trọng đến 20% tổng tài sản là tài sản Có khác, mà trong đó chủ yếu là các khoản phải thu không được thuyết minh rõ ràng trong các báo cáo tài chính của HDBank. Đây là tỷ lệ khá bất thường đối với một NHTM. Năm 2012, phần tài sản Có khác không được đề cập trong thuyết minh báo cáo tài chính nên không rõ số tiền đặt cọc mua trái phiếu của HDBank còn bao nhiêu, nhưng các năm 2010 và 2011 lần lượt là 3.235 và 3.536 tỷ đồng. Đây bản chất là khoản tiền được giải ngân theo hình thức ủy thác nhằm lách qui định về giới hạn tăng trưởng tín dụng mà nhiều NHTM khác cũng thực hiện rầm rộ trong giai đoạn 2010 – 2011, và sau đó đã bị NHNN nhắc nhở, chấn chỉnh.
HDBank không phải là ngân hàng có tỷ lệ sinh lời tốt, bằng chứng là các tỷ lệ về ROA, ROE khá thấp so với nhiều NHTM khác. Năm 2012, ROA của HDBank chỉ đạt 0.62%, trong khi đó ROE cũng chỉ đạt 6,04%, là những con số rất thấp.
Như vậy, xét một cách toàn diện, HDBank không phải là một ngân hàng mạnh. Các chỉ tiêu sinh lời, điều mà mọi cổ đông cần để gia tăng giá trị của cổ phần, của ngân hàng đã không được đáp ứng. Trong khi đó, những khoản mục đầu tư của một NHTM chưa thể hiện sự minh bạch, rõ ràng và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Còn Daiabank từ trước đến nay vẫn là ngân hàng nhỏ. Các chỉ số đều thể hiện đây là ngân hàng nằm trong nhóm các NHTM có qui mô vốn chủ sở hữu và tổng tài sản nhỏ nhất trong toàn hệ thống. Đồng thời, các chỉ tiêu sinh lời của ngân hàng này cũng cho thấy sự hoạt động không hiệu quả. ROE và ROA đều ở mức khá thấp so với mức bình quân của ngành.
Tuy vậy, Daiabank trong nhiều năm qua không bị mất thanh khoản, ngay trong điều kiện khó khăn và nhiều NHTM phải chạy đua vượt trần lãi suất. Điều này thể hiện một phần ở số dư gửi và cho vay ròng trên thị trường liên ngân hàng. Chỉ trong 2 năm (2011 và 2012) thì Daiabank mới vay ròng trên thị trường liên ngân hàng để bổ sung cho nguồn vốn hoạt động, tuy nhiên, số dư cao nhất vào cuối năm 2011 chỉ ở mức gần 500 tỷ đồng.
Dư nợ cho vay của Daiabank tăng khá đều, không có những năm tăng/giảm có tính biến động cao như nhiều NHTM khác. Vốn vay từ Daiabank cũng trải khá đều ở các lĩnh vực, không có lĩnh vực nhạy cảm nào chiếm tỷ trọng lớn. Tổng chứng khoán đầu tư và tài sản Có khác của Daiabank thời điểm cao nhất (31/12/2012) đạt khoảng 2.900 tỷ đồng, bằng 16% tổng tài sản. Đây là tỷ lệ khá an toàn.
Tác giả không có đủ các báo cáo tài chính và thông tin cần thiết để phân tích cụ thể hơn về những khoản mục đầu tư của Daiabank như HDBank. Tuy nhiên, ở mức độ tổng quát, những khoản mục đầu tư của Daiabank tương đối an toàn về mặt tỷ trọng, không có những khoản mục đầu tư ngoài tín dụng chiếm tỷ trọng quá cao trong tổng tài sản để có thể làm lệch hoạt động của một NHTM, vốn xem cấp tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu.
Như vậy, các báo cáo tài chính của Daiabank không cho biết tại sao ngân hàng này phải sáp nhập vào một ngân hàng khác.
Hợp nhất, sáp nhập hay mua bán?
Điều gì khiến Daiabank mất đi thương hiệu mà họ đã gầy dựng trong 20 năm qua, khi mà những phân tích trên bề mặt các báo cáo tài chính không thể cho câu trả lời chính xác. Những nhân viên của Daiabank cho rằng, nếu không có “vụ Bầu Kiên”, không có quá trình chuyển đổi mô hình từ nông thôn sang đô thị, không có qui định “ép” tăng vốn, đặc biệt là các mốc 1.000 tỷ đồng và 3.000 tỷ đồng, họ đã không phải bán mình như ngày hôm nay.
Vẫn không khác so với khi còn là ngân hàng TMCP nông thôn, Daiabank vẫn hoạt động khá hiệu quả ở địa bàn “truyền thống” là Đồng Nai, nhưng các địa bàn trọng điểm như TP.HCM và Hà Nội mà họ hoạt động sau khi trở thành ngân hàng TMCP đô thị, lại không hiệu quả, nợ xấu của Daiabank chủ yếu tập trung ở hai địa bàn này. Trong khi đó, việc tăng vốn để đáp ứng các yêu cầu vốn pháp định đã buộc Daiabank cầu viện đến các nguồn lực bên ngoài, mà khi họ rút đi, Daiabank đã không thể trụ vững.
ACB và nhóm cổ đông có liên quan (với tỷ lệ nắm giữ trên 30% vốn chủ sở hữu) đã rút vốn khỏi Daiabank và được thay bằng một nhóm cổ đông khác. Trong khi đó, Tổng công ty Tín Nghĩa trước áp lực phải thoái vốn vì đầu tư ngoài ngành và vì chính sự không hiệu quả của khoản góp vốn vào Daiabank, đã buộc phải bán lại như báo chí đã đăng tải rộng rãi.
Như vậy, cổ đông của Daiabank đã gần như thay đổi toàn bộ so với trước đây. Một giao dịch mua bán trong hình hài của một thương vụ sáp nhập.
19.10.2013

Tuesday, September 17, 2013

14 Questions About The Federal Reserve You Were Too Embarrassed To Ask

As market-watchers, nothing gives us heart palpitations quite like a meeting of the Federal Open Market Commission.
And fortunately, a big one is coming up this week!
But for most people, the Federal Reserve invokes confusion, derision, or nausea.
Inspired by some other great "explainers" we've seen lately, here's the definitive Federal Reserve Q&A, answering all your questions shame free. Hopefully, this will help you understand this week's big meeting, as well as all future ones.
Let's get started.
What is the Federal Reserve?
The Federal Reserve — or "the Fed" — is the central bank of the United States. Let's just start with what a central bank is, since plenty of countries have them. Actually, the U.S. was pretty late to the central banking game, as Americans' spirit of individualism generally inspires disdain for large, centrally-coordinated government authorities. Central banks are tasked with controlling interest rates, the money supply, and overseeing the banking system.
How is the Fed set up?
In a stranger way than most central banks. There are four tiers: The Board of Governors, the Federal Open Market Commission (FOMC), 12 regional banks, and smaller member banks.
We'll start from the top. The Board of Governors is responsible for much of the monetary policy we'll describe later. These seven people are nominated by the President, pass Senate approval, and sit in Washington making decisions. Ben Bernanke is the current chairman. His term will end in January, and people have been speculating and endorsing like crazy about who his replacement will be.
Next we have the FOMC, a commission of seven Board of Governors members and five regional bank presidents. The FOMC runs open market operations, which we'll also get to later.
Then there are the 12 regional banks, responsible for much of the nitty gritty banking stuff (like check clearing). They are located in Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, and San Francisco. Each regional bank has a president and oversees the thousands of member banks in its region.
Those are very random cities.
Yeah, it's weird. You can actually chalk that up to 1913 American politics. There were a lot of holdouts when Congress was voting on the Federal Reserve Act in 1913. The senator from Missouri, for example, could only be swayed if his home state became the only one to house two regional banks.
This seems complicated and arbitrary. Why do we even have a Federal Reserve?
As we mentioned, the U.S. didn't have a Federal Reserve bank for a long time. This meant that the late 19th Century was basically a series of uncontrollable economic panics. It wasn't until 1907, when the New York Stock Exchange fell 50% and depositors "ran on the bank" to recoup their money, that people warmed to the idea of a central bank and legislation passed.

Bank run
Archives
So the point of the Fed is to control economic panics? How? Well, yes (at first).
We all know that when you deposit a check, the money doesn't just stay in your bank's vault until you need to hit the ATM because this bar is cash-only. No, banks move around and invest most of what they take in. This is how banks make money, among other ways. There are, of course, rules now about how much banks have to hold in "reserves," but the problem before the Federal Reserve was this: What happens when all the depositors want their cash back at once, a la the bank run scene in It's A Wonderful Life. As you'll recall, Jimmy Stewart's George Bailey tells the townspeople of Bedford Falls, "You're thinking of this place all wrong. As if I had the money back in a safe. The money's not here. Your money's in Joe's house... and in the Kennedy house, and Mrs. Macklin's house, and a hundred others."
George Bailey was actually talking about fractional-reserve banking. Today the Federal Reserve might say, "George, if all else fails, we can step in and be the lender of last resort." The Fed kind of did say that in 2008, albeit not to George Bailey, but to nine highly-paid bank CEOs.
How can the Fed be the lender of last resort?
We're not sure you want to ask that because the answer may scare you. We know the Federal Reserve has power to print money. Theoretically, though, it could print enough money to bail out anyone or anything in any situation. How? As a fiat currency, the dollar is not tied to anything. It was once tied to gold, but Richard Nixon got rid of that in 1971.
Debt hawks are wrong when they say things like, "The U.S. is becoming the next Greece." Greece doesn't have its own state currency, and needs to be periodically bailed out by Europe's central bank. But the United States as a whole can always just print more money!
That doesn't seem sustainable.
It's not. To be fair, it's not exactly like we're just sitting here sending truckloads of $100 dollar bills into the economy. Plenty of governments have tried to do that and bad things have happened. The good news is that the Fed keeps a watchful eye on inflation to make sure that, as the balance sheet expands, we're not seeing runaway figures.
Still, as originally intended, the Federal Reserve exists to extend credit to banks or other institutions in emergency circumstances like a bank run.
Of course, we've come a long way in 100 years, and new circumstances like the financial crisis has inspired the Fed to do a lot of new things. They admit as much in their mission statement: "To provide the nation with a safer, more flexible, and more stable monetary and financial system. Over the years, its role in banking and the economy has expanded."
Expanded? What does the Fed do now?
The Fed sets what's known as "monetary policy" in order to promote the economic health of the country. Monetary policy impacts interest rates, which obviously impact the economy. Via monetary policy, the Fed intervenes in a few key ways.
1. The discount rate: "The discount rate is the interest rate charged to commercial banks and other depository institutions on loans they receive from their regional Federal Reserve Bank's lending facility — the discount window," according to the Fed. Don't worry too much about this one for our purposes.
2. Reserve requirements: How much a bank has to hold in reserves. The Fed uses the tool to control how much banks can lend out.
3. Open Market Operations (OMO): Listen up because this one is important. You might have heard how the Fed is buying assets in a program known as Quantitative Easing, and we'll get to that later. OMOs are similar, and have been the longstanding program by which the Fed implements monetary policy. The Fed has used OMOs, the purchase of government bonds on the open market, as a means to adjust the federal funds rate to a specified Fed target. The federal funds rate is a metric that controls "interbank loans."
When the Fed reduces the federal funds rate, as it has done since the crisis, it encourages banks to take out interbank loans. That incentivizes them to lend more freely, which theoretically speeds up the economy. Conversely, the Fed would raise the federal funds rate if it thought the system was too loose and could create a bubble.
With the economy in recovery mode, the Federal Reserve wants to keep the federal funds rate as low as possible. The only problem now is that it has been at 0% since 2009.
In fact, the Federal Reserve has been operating under ZIRP — zero-interest rate policy. Simply put, nominal interest rates are as low as they can go. We've reached the boundary of conventional monetary policy wisdom.
So what monetary measure can the Federal Reserve take if rates are at zero?
We told you we'd get to Quantitative Easing (QE) later. It's later. QE is what's known as "unconventional monetary policy," which is a nicer way of saying "Sure, I guess we'll try this now."
In the wake of the financial crisis, and with rates at the "zero lower bound," the bank introduced a spate of new monetary policy options. Chief among them was "quantitative easing," a program in which the Fed purchases assets in order to increase the money supply. Since 2008, the Fed has purchased billions of dollars worth of mortgage-backed securities (those bad things that helped cause the financial crisis) and billions of dollars worth of Treasury notes. Along the way since then, the Fed introduced two new "rounds" of QE.
QE has kept interest rates low, some would argue artificially and "uneconomically" low. Either way, the upshot has been a rebounding stock and bond market in the years since the crisis.
Now, critics of QE (who like to call the third round "QE-Infinity" due to the program's endurance) have warned that this kind of asset purchasing will lead to higher inflation. Controlling inflation, as it happens, is one of the Fed's chief concerns.
So far, we haven't seen the kind of inflation people were worried about, and economist Paul Krugman gained a lot of notoriety for basically calling QE critics wrong over and over again. That doesn't mean the program isn't problematic. The Fed's balance sheet has grown immensely, to $3.6 trillion.
Will QE ever stop?
In June, the Fed sent markets in a tizzy by announcing it would look at "tapering" QE. Now, tapering doesn't mean ceasing the purchase of assets. It means buying them at a slower rate. Markets still freaked out and interest rates shot up.
Even with a taper, it looks like QE will go on for a while longer. And even when it finishes, people are unsure how exactly a central bank can unwind $3.6 trillion.
So what the Fed says or does really impacts the market?
You said it. The Fed has tried to be pretty direct by offering what's known as "forward guidance— meaning clear communication about future interest rates. Having exhausted its normal monetary policy tools, the Federal Reserve has said it will tether policy changes to observed economic indicators. Better communication will help market actors "price in" economic changes.
Think of it this way, the Fed right now is saying, "Look, we're going to keep rates low for a very long time." Normally, the Fed only controls the short-term interest rate, but by telling Wall Street that they can borrow at low rates for a long time, firms will presumably be more eager to lend money out to the American people (at a lower interest rate too).
Central banks usually act in a shroud of mystery, but Chairman Bernanke clearly wants to uproot that. Other central bankers, like Mark Carney in England, have followed suit.
The Fed says that it will keep the federal funds rate unchanged until we hit 6-6.5% unemployment. We're currently at 7.3%. Seems clear enough, but market still get roiled every time the Fed opens its mouth or people think it just did. Central banks will always make waves in markets because what they do or say is clearly so intrinsic to the future of economy. Guessing on the future of the economy remains how traders make money, so you can imagine how angry some of them get when the they think the Fed isn't being clear about its intentions.
greenspan fed
Pictured center: Former Fed Chairman Alan Greenspan (1987-2006)
Hold on, let's go back a second. You never said anything about the unemployment rate.
Ah sorry, yes, the Fed does concern itself with employment figures. As a 100-year old institution, the Fed's responsibilities have been revised by legislation through the years.
There was the 1946 Employment Act which called upon the government to pursue maximum employment. Then in 1977, Congress got more specific and passed the Federal Reserve Reform Act, which instructs the Fed to use monetary policy to promote employment and control inflation. That law didn't happen by accident. You might recall that the late 1970s was a terrible time for employment and inflation.
But why do people hate the Fed?
Surely you're talking about Ron Paul's campaign battle cry to "End the Fed." Or perhaps Rick Perry's veiled threat to murder Ben Bernanke for high treason.
The Fed today has what is known as a "dual mandate" to keep an eye inflation and employment at the same time. And this is one of the chief critiques that Fed haters cite.
Critics stress that the original intention of the Fed was to avoid banking panics. If the Fed has to concern itself with employment, it has an incentive to keep interest rates low to juice the economy. But if you keep interest rates low, especially during good times, bubbles can and will appear. In 2001, we saw a stock bubble. In 2007, an asset (housing) bubble. Bubbles, as history has shown us, lead to the kinds of banking crises the Fed was originally tasked with preventing.
So what's the likelihood of another crisis?
If you can answer that, you should be a central banker. This is hard stuff. The people at the Fed are genuinely trying to ensure the health and stability of the American economy. In retrospect, it's easy to see clear central banking mistakes. During his tenure as Fed Chair in the 1990s, Alan Greenspan was hailed as a demigod for having "figured out" monetary policy. It wasn't until the housing market crashed years later that people realized his policy of ultra-low interest rates and deregulation fostered an economic powder keg.
Monetary policy can have reverberations years — perhaps decades  later, so it's best to pay attention. It's not easy work, but hopefully now you understand it a little better.