(TBKTSG) Nền kinh tế đang
đi vào một quỹ đạo khó lường, chưa kịp mừng khi lạm
phát có dấu hiệu giảm thì nền kinh tế lại phải đối
mặt nhiều thách thức mới khi tốc độ tăng trưởng,
kim ngạch xuất nhập khẩu, các chỉ số sản xuất công
nghiệp...cũng giảm theo. Nhận diện chính xác nguyên nhân
để tìm ra những giải pháp phù hợp có lẽ là vấn đề
bức thiết nhất lúc này.
Nguyên nhân của
những khó khăn
Số liệu thống kê
kinh tế của quí 1/2012 đã được
nhiều chuyên gia phân tích, thiết nghĩ không cần phải
nhắc lại. Tác giả bài viết này đồng
ý với quan điểm cho rằng, nền kinh tế nước
ta đang thật sự khó khăn, có nguy cơ rơi vào tình
trạng đình đốn trong thời gian tới.
Điều này có nguyên
nhân chủ yếu do tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong
nhiều năm qua đã quá phụ thuộc
vào vốn so với năng suất lao động
và tiến bộ công nghệ. Trong khi đó,
nếu vốn đầu tư từ ngân sách vẫn chưa chứng
minh được hiệu quả thì nguồn tín dụng ngân hàng năm
2011 chỉ tăng bằng 1/3 so với mức tăng bình quân của
giai đoạn 2005-2010, thậm chí quí 1/2012
còn giảm mạnh, đến 2,13% so với cuối năm 2011.
Ngày 25/3 vừa qua, Thủ
tướng chính phủ đã có buổi tham
vấn các chuyên gia về các chính
sách vĩ mô, trong đó có 2 ý kiến rất đáng chú ý liên
quan đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng thời gian qua.
Trong khi Thống đốc cho rằng, tín dụng năm 2011 tăng chậm
và sụt giảm trong quí 1/2012 thì “vấn đề không phải
là “tiếp cận vốn” mà là khả năng hấp thụ vốn
của doanh nghiệp rất kém”, còn ở phía ngược lại,
ông Trần Xuân Giá (chủ tịch ACB) lại cho rằng “vấn
đề không phải là tính thanh khoản, hay là không có người
vay, mà là lãi suất cao quá khiến doanh nghiệp không vay
được”.
Có lẽ cả hai vị
đều đúng, ở thời điểm hiện tại, khả năng hấp thụ
vốn của doanh nghiệp kém bởi đầu ra đang thực sự khó
khăn, lạm phát đã bào mòn sức mua của người dân và
lợi nhuận của doanh nghiệp, dẫn đến tổng cầu sụt
giảm. Nhưng hấp thụ vốn kém cũng bởi doanh nghiệp khó
tìm được dự án kinh doanh khả thi ở thời điểm này
khi mà lãi suất ngân hàng đang quá cao, làm triệt tiêu
sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội
địa và quốc tế. Đó chỉ là hai mặt của một vấn đề
mà thôi.
Vì
vậy, để tránh nguy cơ đình đốn trong thời gian
tới, cần giải quyết hai vấn đề chính, đó là hạ lãi
suất cho vay và tăng tổng cầu cho nền kinh tế.
Nhận
diện chính xác và giải quyết nhanh bài
toán thanh khoản
Có ý kiến cho rằng,
cần duy trì mức lãi suất cao để
tạo ra áp lực cho quá trình cải cách sau khi NHNN điều
chỉnh giảm 1 điểm phần trăm các loại lãi suất điều
hành. Tuy nhiên, cần biết rằng, vấn đề thanh khoản của
hệ thống ngân hàng kéo dài đã hơn 2 năm nay, nếu tính
từ thời điểm cuộc đua lãi suất trở nên công khai (từ
tháng 12/2010) thì đến nay đã tròn một
năm một quí. Trong suốt thời gian
đó, nền kinh tế đã phải gánh chịu mức lãi suất quá
cao (chứ không chỉ cao). Vì vậy, kéo dài
thêm sẽ quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Theo NHNN, nhóm ngân
hàng đang thiếu thanh khoản chỉ chiếm khoảng 6% thị
phần, vậy sao có thể “làm mưa làm gió” trên thị
trường huy động, khiến cho nền kinh tế phải gồng mình
gánh chịu mức lãi suất cao suốt một thời gian dài? Vì
vậy, tôi cho rằng, nhận định về nhóm ngân hàng thiếu
thanh khoản như trên là chưa hợp lý. Bên cạnh những
ngân hàng thừa thanh khoản thật sự, thì hiện nay nhiều
ngân hàng nằm trong nhóm 1, 2 vẫn huy động vượt trần,
không phải chỉ vì để giữ khách hàng.
Có thể nói rằng
NHNN tỏ ra thiếu kiên quyết trong vấn đề xử lý thanh
khoản, từ chổ nhận định chưa đúng nhóm đối tượng
thiếu thanh khoản cho đến việc giải quyết thanh khoản
của nhóm yếu kém đã được xác định. Điều đó giải
thích cho hiện tượng vượt trần lãi suất kéo dài mà
không có hướng giải quyết.
Đối với nhóm ngân
hàng yếu kém được xác định là đang
mất thanh khoản, thì hiện nay
họ không được tăng trưởng tín dụng. Vậy nhu cầu vốn
của họ xuất phát từ đâu? Vấn đề họ đang phải đối
mặt là nợ quá hạn đang gia tăng từng ngày, những khoản
nợ quá hạn phát sinh dẫn đến khả năng quay vòng vốn
để trả cho những khoản tiền gửi gặp khó khăn, bên
cạnh đó là yêu cầu phải hoàn trả các khoản vay tái
cấp vốn cho NHNN. Với các ngân hàng này, lấy sau trả
trước và chấp nhận lãi suất cao
là việc bắt buộc phải làm.
Đối với nhóm này,
điều quan trọng nhất đối với NHNN là xác định chính
xác được dòng vốn đã đi đâu và yêu cầu họ phải
quyết liệt thu hồi (với chế tài mạnh mẽ, nếu không
thu hồi được trong thời gian nhất định thì sẽ cách
chức/miễn nhiệm HĐQT/Ban
điều hành, chẳng hạn), bởi lẽ nếu họ chỉ cho vay
khách hàng bình thường như những ngân hàng khác, mức độ
thiếu hụt thanh khoản chắc chắn không nghiêm trọng và
kéo dài như vậy. Nếu những khoản nợ đó không được
thu hồi kịp thời, mọi nỗ lực sẽ không giải quyết
được tận gốc vấn đề và nguy cơ tái mất thanh khoản
vẫn luôn hiện hữu.
Nhưng đó không phải
là chuyện một sớm một chiều, trước mắt có thể tính
đến phương án áp dụng chế tài đối với người gửi
tiền vượt trần lãi suất. Có chuyên gia
cho rằng, trong quá trình tái cơ cấu, thông điệp
“không để ngân hàng nào đổ vỡ” của NHNN cần phải
được thay bằng “không để cho người gửi tiền mất
tiền”. Theo tôi, cho dù có thay đổi như vậy, thông điệp
vẫn còn quá rộng, chỉ nên “bảo đảm quyền lợi của
người gửi tiền hợp pháp” là đủ.
Với kỳ vọng lạm
phát hiện nay, mức lãi suất trần 13%/năm là đảm bảo
cho lãi suất thực dương, do đó người gửi tiền không
có lý do biện minh cho hành vi gửi tiền vượt trần lãi
suất của mình ngoài việc tìm kiếm một mức sinh lời
cao hơn. Việc chỉ áp dụng chế tài đối với ngân hàng
(chỉ là một trong hai bên tham gia vào một thỏa thuận
trái pháp luật) thực tế không đủ
tính răn đe. Nếu bị phát hiện, khoản tiền gửi sẽ
không được trả lãi, thậm chí áp dụng hình phạt bổ
sung như tịch thu khoản tiền gửi và/hoặc trong trường
hợp xảy ra giải thể, phá sản ngân hàng, thì các khoản
tiền gửi này sẽ không được bảo hiểm... là những
chế tài đủ mạnh để lập lại trật tự thị trường
vốn đã “nhờn thuốc” từ lâu như hiện nay.
Đến lúc cần
xem xét các
biện pháp kích cầu
Chỉ với một quí có
tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp mà đặt ra vấn đề
kích cầu có lẽ là hơi sớm. Tuy nhiên, nếu lãi suất
cho vay thực tế vẫn duy trì ở cao, kéo dài và chưa có
hướng giải quyết như hiện nay (dù sắp tới trần lãi
suất có giảm), cộng với độ trễ của chính sách (từ
6 tháng) thì các giải pháp để kích cầu có lẽ nên cần
bàn đến ngay từ bây giờ.
Chúng ta sẽ xem xét
từng nhân tố của mô hình tổng cầu (AD) trong nền kinh
tế mở (AD = C + I + G + NX)
để có thể lựa chọn những giải pháp kích cầu phù
hợp trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên,
việc kích cầu cần tránh lặp lại những biện pháp như
hỗ trợ lãi suất, đẩy mạnh chi tiêu công như chúng ta
đã từng áp dụng trong quá khứ mà kết quả thế nào ai
cũng rõ.
Đầu tiên là chi
tiêu của hộ gia đình (C). Kích cầu đối tượng này
bằng cách gia tăng thu nhập khả dụng (thu nhập sau thuế)
là giải pháp khả dĩ hiện nay. Mức giảm
trừ bản thân 4 triệu đồng
và giảm trừ người phụ thuộc 1,6
triệu đồng hiện nay cần phải khẩn trương điều chỉnh
theo hướng tăng lên. Với mặt bằng giá cả hiện nay,
các mức giảm trừ này khó đảm
bảo cho người lao động có mức
sống trung bình, do đó việc phải đóng thuế thu nhập cá
nhân ở mức thu nhập này chẳng khác nào
lạm thu và rõ ràng đã ảnh hưởng đến sức mua của
nền kinh tế.
Với tiêu dùng cá
nhân, điều đáng mừng là lạm phát đang trên đà giảm,
điều này sẽ có tác dụng khiến mọi người cảm thấy
mình “giàu có” hơn do mua được nhiều tài sản hơn
với số tiền lương danh nghĩa cố định,
điều này cũng sẽ giúp mở
rộng tổng cầu.
Đối với các
khoản đầu tư (I): số lượng thống kê các doanh
nghiệp giải thể, phá sản, ngưng nộp thuế... dù chắc
chắn chưa đầy đủ, cùng với thất nghiệp, chỉ số
hàng tồn kho và nợ quá hạn tại các ngân hàng gia tăng
đã cho chúng ta một bức tranh xám xịt về tình hình sức
khỏe của doanh nghiệp. Khả năng chịu đựng của khối
doanh nghiệp ngoài nhà nước có lẽ đã đến giới hạn.
Do đó, các biện pháp giảm hoặc hoãn thuế cần được
tính đến nếu tình hình sắp tới không được cải
thiện. Bên cạnh đó, ở khía cạnh doanh nghiệp, dưới
áp lực của khó khăn, cần đẩy mạnh quá trình tái cơ
cấu tổ chức và hoạt động hơn nữa, nhằm tiết giảm
chi phí để nâng cao hiệu quả và gia tăng đầu tư.
Đối với chi tiêu
chính phủ (G): thời điểm này không
thể trông đợi vào việc mở rộng chi tiêu chính phủ để
gia tăng tổng cầu, ngược lại cần phải cắt giảm
trong thời gian tới. Các nghiên cứu lý thuyết về tác
động của chi tiêu chính phủ tới tổng cầu đã chỉ ra
rằng, chi tiêu chính phủ tất nhiên là cần thiết, tuy
nhiên nếu vượt quá một ngưỡng nào đó thì sẽ có tác
dụng ngược, tức là sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế.
Ngưỡng mà các nhà kinh tế cho rằng hợp lý là 15-25%
GDP, nếu vượt quá ngưỡng này, chi
tiêu chính phủ sẽ dẫn đến việc phân bổ các nguồn
lực không hiệu quả, trong đó có tác dụng hất ra đối
với đầu tư tư nhân.
Trong khi đó, chi tiêu
công của Việt Nam đã vượt mức 30% GDP trong nhiều năm
qua, và tác động hất ra đối với đầu tư tư nhân về
mặt định tính có thể nhận thấy thông qua việc dòng
vốn từ hệ thống ngân hàng đang chuyển sang tài trợ
cho ngân sách bằng việc mua trái phiếu chính phủ, còn
tín dụng cho các thành phần kinh tế bị tắt nghẽn.
Cuối cùng là xuất
khẩu ròng (NX): nếu chỉ đơn thuần nhìn vào mức
thâm hụt thương mại vỏn vẹn 300 triệu đô la Mỹ trong
3 tháng đầu năm 2012 thì đó là kết quả khả quan, thế
nhưng khi xét trong tổng thể của một “nền kinh tế gia
công” thì đó thật sự là tín
hiệu đáng lo ngại. Ở điều kiện hiện tại, chính
những vấn đề nội tại là nguyên nhân chủ yếu ảnh
hưởng đến khả năng xuất khẩu của nền kinh tế, chứ
không phải vấn đề tỷ giá hay thị trường. Tuy nhiên,
việc mở rộng thị trường xuất khẩu khi
sức mua của thị trường nội địa đang suy giảm là
việc làm được khuyến khích. Mặc
dù đây không phải là giải pháp có thể tác động mạnh
đến tổng cầu trong điều kiện hiện tại.
Tóm lại, cần khoan
sức dân hơn nữa, nhưng phải quyết liệt hơn nữa trong
giải quyết thanh khoản của hệ thống ngân hàng và giảm
dần chi tiêu công là những giải pháp cần thiết nhằm
tránh một sự đình trệ sản xuất
có thể xảy ra trong tương lai gần,
cũng là cách giảm nguy cơ của lạm phát đình đốn, mà
nếu xảy ra, sẽ khó giải quyết hơn nhiều so với lạm
phát do cung tiền như thời gian qua.