Tuesday, April 17, 2012

Hoa mùa hạ

Mùa hoa gạo tháng 3

Hoa gạo đỏ tươi
Bên dòng nước
Bên ao làng
Loa kèn
Gánh hoa 
Ảnh: báo Giáo dục Việt Nam

Saturday, April 14, 2012

Sacombank đã xong!

Mấy ngày nay, liên tiếp các thông tin về việc các cổ đông lớn hiện hữu của Sacombank đăng ký bán cổ phiếu. Lần lượt Sacomreal, ông Chang Heng Jui, Bourbon Tây Ninh và nay là Thành Thành Công thoái vốn. Đế chế Đặng Văn Thành chính thức sụp đổ!
Có thể gia đình ông Thành sẽ mua lại một ngân hàng khác, biết đâu được! Bởi sự thất bại này của ông Thành là không thể chấp nhận được.

Lý thuyết kinh tế

Đọc bài "Hãy kiên nhẫn thêm chút nữa" trên TBKTSG, thấy cách lý luận này rất giống với lý thuyết trong giáo khoa kinh tế vĩ mô.
Điều quan trọng là bài được sự hỗ trợ của bảng số liệu về tốc độ tăng chi tiêu hàng hóa thực (có thể hiểu là tổng cầu). Theo số liệu thì tổng cầu có xu hướng phục hồi trong 3 tháng đầu năm 2012. Điều này phù hợp với lý thuyết nào?
Lạm phát cao, lãi suất cao đã làm giảm tổng cầu, tuy nhiên trong thời gian gần đây, lạm phát đã được kiềm chế, điều này giúp chi tiêu của hộ gia đình tăng đã hỗ trợ tổng cầu.
Lãi suất tăng quá cao trong khi giá đang có xu hướng không tăng kịp, điều này làm hàng tồn kho gia tăng và doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, làm giảm tổng cung.
Lãi suất đã giảm, điều này sắp tới sẽ có hỗ trợ cho đầu tư (I) và xuất khẩu ròng, sẽ góp phần hỗ trợ tổng cầu. Nhưng điều này không tác động ngay, sẽ có thời gian và thời gian đó là cần thiết để loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém.

Friday, April 13, 2012

Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn

Trong dài hạn, tổng cung của nền kinh tế phụ thuộc vào: lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Điều này cho thấy tổng cung dài hạn không phụ thuộc vào mức giá của nền kinh tế. Đường tổng cung dài hạn là một đường thẳng đứng. Sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn gọi là sản lượng toàn dụng hay sản lượng tiềm năng. Tổng cung trong dài hạn dịch chuyển phụ thuộc vào sự thay đổi của 4 yếu tố trên.
Còn trong ngắn hạn, sản lượng của nền kinh tế sẽ dao động xung quanh sản lượng tiềm năng. Tổng cung trong ngắn hạn phụ thuộc vào mức giá, và có quan hệ nghịch chiều, tức đường tổng cung ngắn hạn là đường dốc lên. Việc dốc lên này được giải thích dựa vào 3 lý thuyết:
- Lý thuyết nhận thức sai lầm: tức là giá cả của hàng hóa giảm xuống, mặc dù mức giá giảm chung nhưng con người luôn có sự nhận thức sai lầm về sự giảm giá này. Đó là, đối với nhà sản xuất, khi giá hàng hóa của họ giảm, họ có xu hướng nhận thấy rằng hình như chỉ có giá hàng hóa của họ giảm, hoặc là chỉ có giá hàng hóa của họ là giảm mạnh nhất. Từ đó dẫn đến việc giảm sản lượng cung ứng. Việc giảm sản lượng cung ứng này sẽ diễn ra ở qui mô toàn nền kinh tế, tổng cung của nền kinh tế trong ngắn hạn sụt giảm.
Việc nhận thức đúng phải là mức giá giảm ở hầu hết các mặt hàng, và khi đó sẽ không có lý do để giảm nguồn cung ứng của mặt hàng do công ty mình phụ trách vì giá tương đối không thay đổi (giá tương đối là giá so sánh giữa các hàng hóa với nhau).
- Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: xuất phát từ những hợp đồng lao động có thời gian từ 2 năm, và trong khoản thời gian đó, tiền lương danh nghĩa ít thay đổi trong khi tiền lương thực tế thay đổi từng ngày.
Khi giá hàng hóa giảm xuống mà tiền lương danh nghĩa không đổi, tức là tiền lương thực tế tăng lên. Do chí phí lương là chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ cân nhắc cắt giảm lao động để giảm chi phí, chính điều này ảnh hưởng đến nguồn cung của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
- Lý thuyết giá cả cứng nhắc: xuất phát từ chi phí thực đơn (nhà sản xuất có xu hướng chậm điều chỉnh giá do mỗi lần điều chỉnh là mỗi lần tốn chi phí in catalouge, báo giá mới...). Khi giá hàng hóa đã giảm mà doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp giá bán của mình dẫn đến hàng hóa đắt hơn mức kỳ vọng của thì trường. Điều này sẽ làm doanh số bán sụt giảm, dẫn đến nguồn cung sụt giảm.

Tất cả cách giải thích này chỉ phù hợp trong ngắn hạn. Trong dài hạn, nhận thức sai lầm sẽ được điều chỉnh, tiền lương danh nghĩa sẽ thay đổi, giá cả cũng không còn cứng nhắc.

Cần nhiều giải pháp đồng bộ


(TBKTSG) Nền kinh tế đang đi vào một quỹ đạo khó lường, chưa kịp mừng khi lạm phát có dấu hiệu giảm thì nền kinh tế lại phải đối mặt nhiều thách thức mới khi tốc độ tăng trưởng, kim ngạch xuất nhập khẩu, các chỉ số sản xuất công nghiệp...cũng giảm theo. Nhận diện chính xác nguyên nhân để tìm ra những giải pháp phù hợp có lẽ là vấn đề bức thiết nhất lúc này.
Nguyên nhân của những khó khăn
Số liệu thống kê kinh tế của quí 1/2012 đã được nhiều chuyên gia phân tích, thiết nghĩ không cần phải nhắc lại. Tác giả bài viết này đồng ý với quan điểm cho rằng, nền kinh tế nước ta đang thật sự khó khăn, có nguy cơ rơi vào tình trạng đình đốn trong thời gian tới.
Điều này có nguyên nhân chủ yếu do tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm qua đã quá phụ thuộc vào vốn so với năng suất lao động và tiến bộ công nghệ. Trong khi đó, nếu vốn đầu tư từ ngân sách vẫn chưa chứng minh được hiệu quả thì nguồn tín dụng ngân hàng năm 2011 chỉ tăng bằng 1/3 so với mức tăng bình quân của giai đoạn 2005-2010, thậm chí quí 1/2012 còn giảm mạnh, đến 2,13% so với cuối năm 2011.
Ngày 25/3 vừa qua, Thủ tướng chính phủ đã có buổi tham vấn các chuyên gia về các chính sách vĩ mô, trong đó có 2 ý kiến rất đáng chú ý liên quan đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng thời gian qua. Trong khi Thống đốc cho rằng, tín dụng năm 2011 tăng chậm và sụt giảm trong quí 1/2012 thì “vấn đề không phải là “tiếp cận vốn” mà là khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp rất kém”, còn ở phía ngược lại, ông Trần Xuân Giá (chủ tịch ACB) lại cho rằng “vấn đề không phải là tính thanh khoản, hay là không có người vay, mà là lãi suất cao quá khiến doanh nghiệp không vay được”.
Có lẽ cả hai vị đều đúng, ở thời điểm hiện tại, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp kém bởi đầu ra đang thực sự khó khăn, lạm phát đã bào mòn sức mua của người dân và lợi nhuận của doanh nghiệp, dẫn đến tổng cầu sụt giảm. Nhưng hấp thụ vốn kém cũng bởi doanh nghiệp khó tìm được dự án kinh doanh khả thi ở thời điểm này khi mà lãi suất ngân hàng đang quá cao, làm triệt tiêu sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và quốc tế. Đó chỉ là hai mặt của một vấn đề mà thôi.
Vì vậy, để tránh nguy cơ đình đốn trong thời gian tới, cần giải quyết hai vấn đề chính, đó là hạ lãi suất cho vay và tăng tổng cầu cho nền kinh tế.
Nhận diện chính xác và giải quyết nhanh bài toán thanh khoản
Có ý kiến cho rằng, cần duy trì mức lãi suất cao để tạo ra áp lực cho quá trình cải cách sau khi NHNN điều chỉnh giảm 1 điểm phần trăm các loại lãi suất điều hành. Tuy nhiên, cần biết rằng, vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng kéo dài đã hơn 2 năm nay, nếu tính từ thời điểm cuộc đua lãi suất trở nên công khai (từ tháng 12/2010) thì đến nay đã tròn một năm một quí. Trong suốt thời gian đó, nền kinh tế đã phải gánh chịu mức lãi suất quá cao (chứ không chỉ cao). Vì vậy, kéo dài thêm sẽ quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Theo NHNN, nhóm ngân hàng đang thiếu thanh khoản chỉ chiếm khoảng 6% thị phần, vậy sao có thể “làm mưa làm gió” trên thị trường huy động, khiến cho nền kinh tế phải gồng mình gánh chịu mức lãi suất cao suốt một thời gian dài? Vì vậy, tôi cho rằng, nhận định về nhóm ngân hàng thiếu thanh khoản như trên là chưa hợp lý. Bên cạnh những ngân hàng thừa thanh khoản thật sự, thì hiện nay nhiều ngân hàng nằm trong nhóm 1, 2 vẫn huy động vượt trần, không phải chỉ vì để giữ khách hàng.
Có thể nói rằng NHNN tỏ ra thiếu kiên quyết trong vấn đề xử lý thanh khoản, từ chổ nhận định chưa đúng nhóm đối tượng thiếu thanh khoản cho đến việc giải quyết thanh khoản của nhóm yếu kém đã được xác định. Điều đó giải thích cho hiện tượng vượt trần lãi suất kéo dài mà không có hướng giải quyết.
Đối với nhóm ngân hàng yếu kém được xác định là đang mất thanh khoản, thì hiện nay họ không được tăng trưởng tín dụng. Vậy nhu cầu vốn của họ xuất phát từ đâu? Vấn đề họ đang phải đối mặt là nợ quá hạn đang gia tăng từng ngày, những khoản nợ quá hạn phát sinh dẫn đến khả năng quay vòng vốn để trả cho những khoản tiền gửi gặp khó khăn, bên cạnh đó là yêu cầu phải hoàn trả các khoản vay tái cấp vốn cho NHNN. Với các ngân hàng này, lấy sau trả trước và chấp nhận lãi suất cao là việc bắt buộc phải làm.
Đối với nhóm này, điều quan trọng nhất đối với NHNN là xác định chính xác được dòng vốn đã đi đâu và yêu cầu họ phải quyết liệt thu hồi (với chế tài mạnh mẽ, nếu không thu hồi được trong thời gian nhất định thì sẽ cách chức/miễn nhiệm HĐQT/Ban điều hành, chẳng hạn), bởi lẽ nếu họ chỉ cho vay khách hàng bình thường như những ngân hàng khác, mức độ thiếu hụt thanh khoản chắc chắn không nghiêm trọng và kéo dài như vậy. Nếu những khoản nợ đó không được thu hồi kịp thời, mọi nỗ lực sẽ không giải quyết được tận gốc vấn đề và nguy cơ tái mất thanh khoản vẫn luôn hiện hữu.
Nhưng đó không phải là chuyện một sớm một chiều, trước mắt có thể tính đến phương án áp dụng chế tài đối với người gửi tiền vượt trần lãi suất. Có chuyên gia cho rằng, trong quá trình tái cơ cấu, thông điệp “không để ngân hàng nào đổ vỡ” của NHNN cần phải được thay bằng “không để cho người gửi tiền mất tiền”. Theo tôi, cho dù có thay đổi như vậy, thông điệp vẫn còn quá rộng, chỉ nên “bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền hợp pháp” là đủ.
Với kỳ vọng lạm phát hiện nay, mức lãi suất trần 13%/năm là đảm bảo cho lãi suất thực dương, do đó người gửi tiền không có lý do biện minh cho hành vi gửi tiền vượt trần lãi suất của mình ngoài việc tìm kiếm một mức sinh lời cao hơn. Việc chỉ áp dụng chế tài đối với ngân hàng (chỉ là một trong hai bên tham gia vào một thỏa thuận trái pháp luật) thực tế không đủ tính răn đe. Nếu bị phát hiện, khoản tiền gửi sẽ không được trả lãi, thậm chí áp dụng hình phạt bổ sung như tịch thu khoản tiền gửi và/hoặc trong trường hợp xảy ra giải thể, phá sản ngân hàng, thì các khoản tiền gửi này sẽ không được bảo hiểm... là những chế tài đủ mạnh để lập lại trật tự thị trường vốn đã “nhờn thuốc” từ lâu như hiện nay.
Đến lúc cần xem xét các biện pháp kích cầu
Chỉ với một quí có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp mà đặt ra vấn đề kích cầu có lẽ là hơi sớm. Tuy nhiên, nếu lãi suất cho vay thực tế vẫn duy trì ở cao, kéo dài và chưa có hướng giải quyết như hiện nay (dù sắp tới trần lãi suất có giảm), cộng với độ trễ của chính sách (từ 6 tháng) thì các giải pháp để kích cầu có lẽ nên cần bàn đến ngay từ bây giờ.
Chúng ta sẽ xem xét từng nhân tố của mô hình tổng cầu (AD) trong nền kinh tế mở (AD = C + I + G + NX) để có thể lựa chọn những giải pháp kích cầu phù hợp trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, việc kích cầu cần tránh lặp lại những biện pháp như hỗ trợ lãi suất, đẩy mạnh chi tiêu công như chúng ta đã từng áp dụng trong quá khứ mà kết quả thế nào ai cũng rõ.
Đầu tiên là chi tiêu của hộ gia đình (C). Kích cầu đối tượng này bằng cách gia tăng thu nhập khả dụng (thu nhập sau thuế) là giải pháp khả dĩ hiện nay. Mức giảm trừ bản thân 4 triệu đồng và giảm trừ người phụ thuộc 1,6 triệu đồng hiện nay cần phải khẩn trương điều chỉnh theo hướng tăng lên. Với mặt bằng giá cả hiện nay, các mức giảm trừ này khó đảm bảo cho người lao động có mức sống trung bình, do đó việc phải đóng thuế thu nhập cá nhân ở mức thu nhập này chẳng khác nào lạm thu và rõ ràng đã ảnh hưởng đến sức mua của nền kinh tế.
Với tiêu dùng cá nhân, điều đáng mừng là lạm phát đang trên đà giảm, điều này sẽ có tác dụng khiến mọi người cảm thấy mình “giàu có” hơn do mua được nhiều tài sản hơn với số tiền lương danh nghĩa cố định, điều này cũng sẽ giúp mở rộng tổng cầu.
Đối với các khoản đầu tư (I): số lượng thống kê các doanh nghiệp giải thể, phá sản, ngưng nộp thuế... dù chắc chắn chưa đầy đủ, cùng với thất nghiệp, chỉ số hàng tồn kho và nợ quá hạn tại các ngân hàng gia tăng đã cho chúng ta một bức tranh xám xịt về tình hình sức khỏe của doanh nghiệp. Khả năng chịu đựng của khối doanh nghiệp ngoài nhà nước có lẽ đã đến giới hạn. Do đó, các biện pháp giảm hoặc hoãn thuế cần được tính đến nếu tình hình sắp tới không được cải thiện. Bên cạnh đó, ở khía cạnh doanh nghiệp, dưới áp lực của khó khăn, cần đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu tổ chức và hoạt động hơn nữa, nhằm tiết giảm chi phí để nâng cao hiệu quả và gia tăng đầu tư.
Đối với chi tiêu chính phủ (G): thời điểm này không thể trông đợi vào việc mở rộng chi tiêu chính phủ để gia tăng tổng cầu, ngược lại cần phải cắt giảm trong thời gian tới. Các nghiên cứu lý thuyết về tác động của chi tiêu chính phủ tới tổng cầu đã chỉ ra rằng, chi tiêu chính phủ tất nhiên là cần thiết, tuy nhiên nếu vượt quá một ngưỡng nào đó thì sẽ có tác dụng ngược, tức là sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế. Ngưỡng mà các nhà kinh tế cho rằng hợp lý là 15-25% GDP, nếu vượt quá ngưỡng này, chi tiêu chính phủ sẽ dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực không hiệu quả, trong đó có tác dụng hất ra đối với đầu tư tư nhân.
Trong khi đó, chi tiêu công của Việt Nam đã vượt mức 30% GDP trong nhiều năm qua, và tác động hất ra đối với đầu tư tư nhân về mặt định tính có thể nhận thấy thông qua việc dòng vốn từ hệ thống ngân hàng đang chuyển sang tài trợ cho ngân sách bằng việc mua trái phiếu chính phủ, còn tín dụng cho các thành phần kinh tế bị tắt nghẽn.
Cuối cùng là xuất khẩu ròng (NX): nếu chỉ đơn thuần nhìn vào mức thâm hụt thương mại vỏn vẹn 300 triệu đô la Mỹ trong 3 tháng đầu năm 2012 thì đó là kết quả khả quan, thế nhưng khi xét trong tổng thể của một “nền kinh tế gia công” thì đó thật sự là tín hiệu đáng lo ngại. Ở điều kiện hiện tại, chính những vấn đề nội tại là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của nền kinh tế, chứ không phải vấn đề tỷ giá hay thị trường. Tuy nhiên, việc mở rộng thị trường xuất khẩu khi sức mua của thị trường nội địa đang suy giảm là việc làm được khuyến khích. Mặc dù đây không phải là giải pháp có thể tác động mạnh đến tổng cầu trong điều kiện hiện tại.
Tóm lại, cần khoan sức dân hơn nữa, nhưng phải quyết liệt hơn nữa trong giải quyết thanh khoản của hệ thống ngân hàng và giảm dần chi tiêu công là những giải pháp cần thiết nhằm tránh một sự đình trệ sản xuất có thể xảy ra trong tương lai gần, cũng là cách giảm nguy cơ của lạm phát đình đốn, mà nếu xảy ra, sẽ khó giải quyết hơn nhiều so với lạm phát do cung tiền như thời gian qua.

Bài viết mới nhất của chủ blog trên TBKTSG. Có thể xem các bài đăng báo khác của chủ blog tại BLOG CŨ.

Đường tổng cầu của nền kinh tế

Có lẽ ai cũng biết, phương trình của đường tổng cầu trong nền kinh tế có dạng: AD = C + I + G + NX. Chúng ta xem tổng cầu hàng hóa của một quốc gia trong quan hệ với mức giá như thế nào?
Đối với cầu hàng hóa của một sản phẩm, giá tăng thì cầu về hàng hóa sẽ giảm, do người tiêu dùng sẽ chuyển sang các mặt hàng có tính thay thế. Còn ở phạm vi tổng cầu của cả nền  kinh tế, sự dịch chuyển như vậy là không thể. Vậy mối quan hệ giữa tổng cầu và mức giá trong tổng thể nền kinh tế là như thế nào?
Đây vẫn là mối quan hệ ngược chiều, tức mức giá của nền kinh tế (CPI hoặc GDP deflator)giảm thì tổng cầu của nền kinh tế sẽ tăng và ngược lại. Giải thích như sau:
- Khi mức giá giảm, mọi người sẽ thấy mình giàu có hơn, và sẽ mua hàng (hàng hóa nói chung, không phân biệt hàng gì) nhiều hơn (hiệu ứng của cải) => tổng cầu tăng.
- Khi giá giảm, bạn thấy mình có nhiều tiền hơn, điều này giúp tăng tiết kiệm của nền kinh tế (vì bạn sẽ gửi thêm tiền tiết kiệm sau khi đã chi tiêu) và sẽ giúp lãi suất giảm do cung vốn trở nên dồi dào. Kết quả là đầu tư tăng (hiệu ứng đầu tư) => tổng cầu tăng.
- Khi mức giá giảm, theo hiệu ứng đầu tư thì lãi suất sẽ giảm, lãi suất giảm làm tỷ giá hối đoái tăng, điều này giúp tăng xuất khẩu ròng (hiệu ứng tỷ giá hối đoái) => tăng tổng cầu.


Thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại

Giải thích việc thâm hụt ngân sách dẫn đến thâm hụt thương mại là tương đối phức tạp. Nhưng nếu hiểu đơn giản thì cũng có cách. Đó là thâm hụt ngân sách do Chính phủ chi tiêu quá mạnh tay, vượt quá nguồn thu. Trong số chi tiêu đó, có phần mua tài sản của nước ngoài thông qua nhập khẩu. Vì vậy thâm hụt ngân sách dẫn đến thâm hụt thương mại (hay gọi là thâm hụt kép).
Còn hiểu đúng thì cần phải có cách diễn giải đầy đủ và chi tiết hơn. Đầu tiên, thâm hụt ngân sách tất nhiên là Chính phủ chi vượt quá nguồn thu. Chi Chính phủ gồm có chi cho đầu tư công, chi thương xuyên, chi chuyển giao thu nhập... Nguồn thu ngân sách chính là thuế, các loại phí và lệ phí.
Việc chi tiêu Chính phủ quá tay sẽ dẫn đến nguồn tiết kiệm quốc gia bị suy giảm (tiết kiệm quốc gia gồm tiết kiệm của hộ gia đình và tiết kiệm của Chính phủ). Tiết kiệm suy giảm tức nguồn vốn cung ứng cho đầu tư bị suy giảm (vì trong nền kinh tế mở, tiết kiệm sẽ bằng đầu tư + xuất khẩu ròng, còn với nền kinh tế đóng, tiết kiệm sẽ bằng đầu tư). Nguồn cung vốn suy giảm trong khi cầu vốn (để đầu tư không thay đổi) sẽ dẫn đến lãi suất tăng (vậy thâm hụt ngân sách làm tăng lãi suất).
Khi lãi suất trong nền kinh tế tăng lên, điều này dẫn đến tỷ giá hối đoái giảm. Tại sao? Lãi suất VND tăng, nhu cầu chuyển ngoại tệ sang VND để đầu tư gia tăng làm tăng nguồn cung ngoại tệ, và tăng nhu cầu VND. Tăng lãi suất sẽ dẫn đến sự dịch chuyển của dòng vốn quốc tế. Đầu tư ròng của quốc gia sẽ giảm (đầu tư ròng bằng = chênh lệch giữa đầu tư ra và đầu tư vào). Có nghĩa là dòng vốn chảy vào sẽ mạnh hơn chảy ra, các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu nắm giữ tài sản của VN nhiều hơn vì suất sinh lời cao hơn. Điều này càng làm tăng cung ngoại tệ, tăng cầu VND.
Như vậy, đồng VN sẽ tăng giá và đồng ngoại tệ sẽ giảm giá. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm và điều này có tác động đến cán cân thương mại quốc gia. Kết quả của sự tác động này là hạn chế XK mà khuyến khích nhập khẩu và là nguyên nhân của thâm hụt thương mại.

Vậy thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến thâm hụt thương mại. Hay tổng quát hơn, đầu tư nhiều hơn tiết kiệm vừa dẫn đến thâm hụt ngân sách vừa dẫn đến thâm hụt thương mại, hay là thâm hụt kép.

Wednesday, April 11, 2012

Sự phân đôi cổ điển và hiệu ứng Fisher

Vào thế kỷ thứ 18, nhà triết học David Hume đã đề cập đến sự phân đôi cổ điểm. Ông chia các biến thành biến danh nghĩa và biến thực tế. Ngày nay chúng ta có thể không còn xa lạ với những khái niệm như lãi suất danh nghĩa, lương danh nghĩa hay lãi suất thực, tiền lương thực tế...Giả sử gọi phân đôi cổ điển là vì các nhà tư tưởng sớm nhất về kinh tế đã thực hiện sự phân đôi này.
David Hume cũng khẳng định rằng, những thay đổi trong cung ứng tiền tệ chỉ tác động đến các biến danh nghĩa chứ không tác động đến các biến thực tế. Do các biến như sản lượng, việc làm, tiền lương và lãi suất thực tế không thay đổi khu cung tiền thay đổi nên người ta gọi đó là tính trung lập của tiền.
Ngày nay, các nhà kinh tế đồng ý rằng: trong thời gian ngắn (1-2 năm) thì cung tiền có ảnh  hưởng đến các biến thực tế, nhưng trong dài hạn thì đúng là tiền có tính trung lập.
Bây giờ chúng ta xem xét công thức:
Lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát hay 
lãi suất danh nghĩa = tỷ lệ lạm phát + lãi suất thực.
Theo lý thuyết về số lượng tiền (MV = PY) thì tăng cung tiền dẫn đến tăng giá (lạm phát). Thì theo công thức trên, ta thấy, tăng cung tiền thì cả lạm phát và lãi suất danh nghĩa đều tăng. Kết luận này được gọi là hiệu ứng Fisher. 
Trong dài hạn, tăng cung tiền sẽ dẫn đến tăng tỷ lệ lạm phát với một tỷ lệ tương ứng, vì lãi suất thực là biến thực tế, không bị ảnh hưởng bởi cung tiền. Nhiều số liệu thực tế đã chứng minh nhận định này là đúng.

Vậy: tăng cung tiền làm tăng cả lạm phát và lãi suất danh nghĩa.



Tại sao tăng cung tiền làm tăng giá

Có lẽ đây là điều hiển nhiên ai cũng biết. Các nhà kinh tế dựa vào mô hình MV=PY để nói rằng khi cung tiền tăng (M tăng) thì giá tăng (P tăng) với giả định vòng quay tiền (V) không đổi, sản lượng hàng hóa (Y) không thay đổi trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, điều đó không giải thích để các bạn hiểu cặn kẽ nguyên nhân mà đơn thuần là chấp nhận mô hình.
- Khi cung tiền tăng lên, bạn thấy mình có tiền nhiều hơn dẫn đến việc bạn mua nhiều hàng hóa hơn => cầu hàng hóa tăng làm tăng giá hàng hóa;
- Nếu bạn không trực tiếp mua hàng, bạn dành số tiền đó gửi tiết kiệm trong ngân hàng. Số tiền này sẽ lại vào tay những người khác thông qua cho vay (số nhân tiền), người có tiền lại tăng mua hàng hóa (hàng tiêu dùng và hàng đầu tư)...
 Tất cả đều dẫn tới tăng cầu hàng hóa nên giá hàng hóa tăng, trong khi việc tăng cung tiền không làm tăng số lượng hàng hóa sản xuất ra (sản lượng hàng hóa phụ thuộc vào tư bản hiện vật (tư liệu sản xuất), vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ).

Quy tắc 70 trong kinh tế học

Trong kinh tế học có quy tắc gọi là quy tắc 70 (có người xem 72 mới đúng), đó là nếu một đại lượng nào đó tăng với tốc độ X%/năm thì sau khoảng thời gian là 70/X năm thì giá trị của đại lượng đó sẽ tăng lên gấp đôi.
Ví dụ, nếu GDP của Việt Nam tăng bình quân 7%/năm thì sau 10 năm, GDP của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi. So sánh GDP của các nước, các bạn sẽ thấy sự thay đổi rất lớn sau một khoảng thời gian.

Nếu GDP của Việt Nam chỉ còn tăng 5%/năm thì thời gian cần có để GDP tăng lên gấp đôi là 14 năm, nếu chỉ tăng 2%/năm thì cần đến 35 năm, rõ ràng là sự thay đổi rất lớn.
Các bạn có thể tự tính, lạm phát của Việt Nam như hiện nay, thì sau bao lâu, giá cả hàng hóa sẽ tăng gấp đôi?

Tuesday, April 10, 2012

Phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động

Lực lượng lao động được hiểu là những người từ 16 tuổi trở lên nhưng không thuộc đối tượng không nằm trong lực lượng lao động.
Lực lượng lao động gồm những người từ 16 tuổi, bao gồm những người có việc làm, người thất nghiệp và người nằm ngoài lực lượng lao động (sinh viên, nội trợ, hưu...).
Thất nghiệp là những người tạm thời nghỉ việc, đang tìm việc và đang chờ công việc mới.
Ngày nay phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động có nhiều nguyên nhân, trong đó:
- Công nghệ đã giúp phụ nữ giải quyết công việc nội trợ nhanh hơn;
- Phụ nữ ngày nay sinh con ít hơn;
- Nhận thức của xã hội về vai trò của phụ nữ đã thay đổi, họ đã có thể tham gia vào nhiều công việc mà trước đây chỉ dành cho nam giới...

Monday, April 9, 2012

Vài dòng

1. Nếu gia tăng tiết kiệm của hộ gia đình, nguồn cung vốn sẽ tăng và làm cho đường cung vốn dịch chuyển sang phải, làm giảm lãi suất và tăng giá trị cân bằng của cung - cầu vốn.
2. Nếu giảm thuế cho doanh nghiệp, họ sẽ gia tăng đầu tư, làm gia tăng nhu cầu về vốn, dẫn đến dịch chuyển đường cầu vốn sang phải, làm tăng lãi suất và tăng giá trị cân bằng của cung - cầu vốn.
3. Ngân sách thặng dư nghĩa là tiết kiệm của chính phủ dương, tức tăng nguồn cung về vốn (chính phủ tăng tiết kiệm làm tăng cung vốn), điều này cũng làm đường cung vốn dịch chuyển sang phải làm giảm lãi suất và tăng giá trị cân bằng của cung - cầu vốn. Ngược lại, nếu ngân sách thâm hụt, làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn dịch chuyển sang trái, làm tăng lãi suất và giảm giá trị cân bằng cung - cầu vốn.

Chi phí cơ hội của tăng dân số

Các quốc gia có nhiều cách khác nhau  để kiểm soát tốc độ tăng dân số. Như Trung Quốc qui định mỗi gia đình chỉ có 01 con, hay Việt Nam vận động mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con. Thế nhưng, nhiều quốc gia đang đối mặt với hiện tượng già hóa dân số nên họ lại khuyến khích người dân sinh thêm con, nhưng có vẻ như không mấy hiệu quả.
Thậm chí ở các khu vực như TP.HCM, Hà Nội hiện nay, nhiều gia đình không muốn có nhiều con, thậm chí nhiều nam thanh nữ tú không muốn lập gia đình, trong khi các vùng nông thôn thì người dân vẫn có xu hướng sinh nhiều con hơn.
Đó là chi phí cơ hội của việc sinh con. Khi chi phí cơ hội này càng lớn, người dân sẽ càng ít mong muốn sinh con hơn. Vậy chi phí cơ hội của gia tăng dân số là gì?
Đó là thời gian rãnh rỗi cho các hoạt động giải trí, tăng thu nhập, vui chơi, học tập, du lịch, hưởng thụ cuộc sống...

Tiết kiệm - đầu tư ảnh hưởng đến cán cân thương mại

Bắt gặp câu hỏi này trên blog của tiến sĩ Lê Hồng Giang, thấy cần câu trả lời nên viết vài dòng để mở đầu cho blog "Chắp nhặt dông dài". Tại sao cán cân tiết kiệm - đầu tư lại ảnh hưởng đến cán cân thương mại?
Chúng ta trở lại mô hình tổng cầu của một nền kinh tế mở: Y =  AD = C + G + I + NX, trong đó:
AD: tổng cầu, Y: tổng sản lượng hay GDP cũng là tổng thu nhập hay tổng chi tiêu của nền kinh tế
C: tiêu dùng của hộ gia đình
G: chi tiêu chính phủ
I: đầu tư
NX: xuất khẩu ròng

 Y = C + G + I + NX => Y - C - G = I + NX
S = I + NX hay S - I = NX, trong đó S là tiết kiệm của nền kinh tế.
Y - C - G: là thu nhập của nền kinh tế trừ đi chi tiêu của hộ gia đình và chi tiêu chính phủ. Đó chính là tiết kiệm của nền kinh tế.
Vậy, ta thấy rõ ràng là cán cân tiết kiệm - đầu tư sẽ ảnh hưởng đến cán cân thương mại (NX). Nếu tiết kiệm lớn hơn đầu tư thì xuất khẩu ròng sẽ dương và ngược lại.