Monday, June 25, 2012

Ngân hàng Việt Nam - Con hổ bị thuần phục

Đây là bản dịch bài viết trên Economist ngày 2/2/2013, bản gốc tại đây.

Thời kỳ tươi sáng sẽ không trở lại cho đến khi những ngân hàng yếu được giải quyết

Vụ bắt giữ các cựu ông chủ nhà băng chỉ là những gì mà nhiều người trong thế giới giàu có mong muốn được nhìn thấy. Ở Việt Nam, điều đó đã trở thành việc xảy ra thường xuyên. Hôm 23 tháng Giêng, Chính phủ tuyên bố họ đã bắt giữ Phạm Thanh Tân, cho đến hiện tại vẫn là TGĐ của Agribank, ngân hàng lớn nhất của nước này (Ông Tân đã chuyển sang NHNN, không còn làm ở Agribank – Lê Duy Khánh). Vụ bắt giữ này là vụ bắt giữ thứ 5 của một quan chức Agribank trong nhiều tháng qua; 4 gương mặt trước đó phải chịu trách nhiệm cho sự tham ô và chiếm dụng tài sản lên đến tổng cộng khoảng 7 triệu đô la Mỹ. 

Trở lại hồi tháng 8, vụ bắt giữ một người đứng đầu của một ngân hàng lớn khác, ACB, đã dẫn đến sự sụt giảm của thị trường chứng khoán và sự rút tiền ngân hàng hàng loạt. 6 tháng sau, thị trường đã phản ứng “vừa đủ” với thông tin ông Tân bị bắt. Nhà đầu tư đã quen với những tin xấu từ lĩnh vực ngân hàng nên bỏ qua chúng.

5 năm trước, Việt Nam đã bay cao như là một mãnh hổ quyến rũ nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên, hai năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của quốc gia này đã chậm lại. Những khoản nợ “chua loét” của các doanb nghiệp nhà nước, cùng với sự đổ vỡ của bong bóng tài sản, đã để lại tình trạng quản lý yếu kém của quốc gia và các ngân hàng “bí mật” một tình trạng lộn xộn, bừa bãi. Nhiều người đã gặp rắc rối vì thực hiện những khoản giải ngân thiếu thận trọng trong thời hoàng kim, thường có liên quan đến những qui định của Đảng cộng sản. Những nhà quản lý bị bát giữ trước đây hoặc là do đút lót, quản lý yếu kém hoặc là “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiệm trọng” như trường hợp của ông Tân. 

Sự khốn cùng của các ngân hàng có cảm giá đang mở rộng. Sự siết chặt tín dụng đã đẩy một số lượng kỷ lục các doanh nghiệp phá sản trong 02 năm qua. Như Jonathan Pincus, nhà kinh tế đang sống ở Tp.HCM, cho rằng, cuộc khủng hoảng ngân hàng “sẽ kìm hãm sự phát triển trong một thời gian rất dài trừ khi điều này được giải quyết”.

Sau nhiều năm của việc giảm được số lượng nợ xấu trong hệ thống, nay chính quyền ít nhất đã thừa nhận sự nghiêm trọng của tình trạng này. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng trung ương của quốc gia này, năm ngoái đã tăng dự báo của họ về tổng mức tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng lên đến 8.8%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nhưng tình trạng không minh bạch của ngành công nghiệp này mà nhiều nhà phân tích nghi ngờ con số thực có thể cao gấp đôi. Ngân hàng Standard Chartered cho rằng tỷ lệ này ở mức 15-20%.

NHNN đang cố gắng làm giảm qui mộ của khu vực này. 9 ngân hàng yếu hơn được khuyến khích hợp nhất hoặc sáp nhập vào những ngân hàng lớn hơn, một số đã thực hiện. Sự củng cố hơn nữa là cần thiết. Hiện có khoảng 04 ngân hàng nội địa, nhiều người nghĩ rằng con số này nên ở mức 25.

NHNN đang cố gắng hỗ trợ cho những ngân hàng tốt với việc thu hút thêm các khoản vốn từ nước ngoài. Đã có một số thành công, đặc biệt là từ đối tác Nhật bản. Họ đang nám giữ lợi thế của một đồng tiền mạnh để mua được với giá tương đối rẻ, và để đa dạng hóa các các khoản đầu tư của họ ở châu Á trong cùng thời gian. Ngày 27/12/2012, Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ tuyên bố rằng họ đã mua 20% cổ phần của Vietinbank, trị giá 743 triệu đô la Mỹ. Vụ mua bán này tiếp theo thương vụ Mizhuho mua 15% cổ phần của Vietcombank, trị giá 567 triệu đô la Mỹ, vào tháng 9/2011.

Để khuyến khích nhiều hơn những thương vụ như vậy, NHNN đã đệ trình một dự thảo thông tư lên chính phủ rằng sẽ cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đến 30% vốn của các ngân hàng trong những hoàn cảnh nhất định, tăng tư mức 20% hiện tại. Những người nước ngoài khác có thể thận trọng hơn. Khu vực ngân hàng vẫn cần phải xem xét lại toàn bộ. Sự minh bạch hơn nữa trong việc báo cáo là cần thiết; nên ít đi tình trạng sở hữu chéo (cross-ownership); kế toán phải tiếp cận chuẩn mực quốc tế. kế hoạch của Chính phủ thành lập công ty quản lý nợ xấu, hay là “ngân hàng xấu” để hấp thu/xử lý nợ xấu của các ngân hàng là không rõ ràng. Đặc biệt, không ai biết chính xác sẽ phải trả tiền để mua những khoản nợ bỏ đi. Bởi như Phạm Hồng Hải ở HSBC Viet Nam rằng “không có bất kỳ con đường nào để xử lý vấn đề này trừ khi phải trả giá bằng những sự đau đớn”.

Thời kỳ “quá độ” của lãi suất


Một phiên bản của bài này đăng trên TBKTSG
 
Sau ngày Thông tư 19/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về lãi suất tối đa đối với tiền gửi Việt Nam đồng có hiệu lực, lãi suất huy động kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở các ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở nên loạn nhịp. Đây chỉ là hiện tượng nhất thời hay sẽ tiếp tục kéo dài, và đâu là nguồn gốc của vấn đề?
Lộ trình tự do hoá lãi suất
Trần lãi suất đã kéo dài quá lâu và đến lúc cần phải có lộ trình để gỡ bỏ. Việc cho phép các NHTM được thoả thuận lãi suất đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên không nằm ngoài lộ trình đó. Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu tiên có hiệu lực của Thông tư 19, lãi suất kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở các NHTM đã tăng cao, hiện có NHTM đã niêm yết mức lãi suất huy động lên đến 14%/năm khiến dư luận lo ngại về một cuộc đua lãi suất mới.
Việc lãi suất kỳ hạn dài ở các NHTM tăng cao có lẽ không nằm ngoài những tính toán của NHNN. Mức độ thiếu/thừa thanh khoản ở các NHTM đã được NHNN nắm rõ và cơ quan quản lý ngành ngân hàng chắc chắn không quá lo lắng với những diễn biến được cho là “nóng” của thị trường tiền tệ mấy ngày qua.
Điều đáng ngại nhất có thể là việc nhiều NHTM nâng mức lãi suất huy động tiền gửi như vừa qua sẽ làm cho mong muốn giảm nhanh lãi suất cho vay của NHNN và các thành phần kinh tế không được như kỳ vọng. Bằng chứng là lãi suất cho vay của các ngân hàng dường như không sự điều chỉnh nào đáng kể khi trần lãi suất huy động đối với kỳ hạn 1-12 tháng về 9%/năm, giảm rất mạnh so với trần 11%/năm trước đó. Điều đó có thể ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng tín dụng của hệ thống năm 2012, đến mục tiêu tăng trưởng GDP, đặc biệt là khi chỉ còn vài ngày nữa là 6 tháng đầu năm sẽ khép lại.
Nóng lãi suất, liệu có kéo dài?
Có thể khẳng định rằng, cuộc đua lãi suất như các năm 2008 và 2011 không có khả năng quay trở lại bởi điều kiện hiện nay đã khác xa những năm trước. Bản chất của các cuộc đua lãi suất những năm qua đều xuất phát từ hai yếu tố căn bản: lạm phát (cả lạm phát hiện tại và lạm phát kỳ vọng) và thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Đối với lạm phát, ai cũng thấy lạm phát hiện tại là rất thấp. Đây là điều kiện cần để cuộc đua lãi suất không thể lặp lại. Với mức lạm phát này, lãi suất không thể duy trì ở mức trên 10%/năm. Tuy nhiên, đối với lạm phát kỳ vọng, có phần bi quan hơn. Trong ngắn hạn, kỳ vọng lạm phát trong vài tháng tới có thể vẫn thấp và mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm 2012 ở mức dưới 10% chắc chắn đã hoàn thành (có thể lạm phát chỉ ở mức 7%). Nhưng có lẽ do quá lo lắng về mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm (5 tháng đầu năm vẫn chưa tăng) mà NHNN đã bơm một lượng vốn quá lớn ra thị trường (khoảng 270.000 tỷ đồng) từ cuối năm 2011 đến nay. Bên cạnh đó, gói “cứu trợ” 100.000 tỷ đồng thông qua công ty mua bán nợ chuẩn bị thành lập và áp lực giải ngân trong 6 tháng cuối năm cũng tạo ra những lo ngại về mục tiêu duy trì mức lạm phát thấp trong vài năm tới. Tuy vậy, những lo ngại này là chưa đủ để hình thành nên kỳ vọng phải tăng lãi suất trong thời gian trước mắt.
Đối với thanh khoản, chắc chắn vẫn chưa hết tình trạng thừa thiếu cục bộ. Đối với các ngân hàng đang thừa vốn khả dụng, họ tham gia nâng lãi suất vì không muốn mất khách hàng. Đây cũng là dịp để họ tái cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng gia tăng nguồn vốn kỳ hạn dài. Nhưng có lẽ, quan trọng nhất, họ cũng cần tích góp để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khi mà trần lãi suất tiền gửi được gỡ bỏ. Bởi khi đó, trong một thị trường ngân hàng “nói không với phá sản”, lãi suất vẫn sẽ là lựa chọn đầu tiên và tối ưu của người gửi tiền.
Cầm trịch của đợt tăng lãi suất vừa qua vẫn là các ngân hàng nhỏ. Dù thanh khoản tính chung cho cả hệ thống đã có sự cải thiện, nhưng vấn đề của từng ngân hàng nằm trong nhóm khó khăn thì vẫn còn hiện hữu. Và việc nâng lãi suất huy động các kỳ hạn dài trong vài ngày qua đã chỉ tên những ngân hàng như vậy. Từ lâu đã không còn giải ngân mới, nhưng nhu cầu đáo hạn tiền gửi, đặc biệt là nợ liên ngân hàng và nợ NHNN vẫn đang thôi thúc. Theo thông tin của người viết, một ngân hàng trong nhóm khó khăn vừa hoàn trả khoảng 6.000 tỷ đồng tiền vay tái cấp vốn cho NHNN, tuy nhiên số tiền ngân hàng này còn nợ NHNN vẫn gấp đôi số tiền đó cộng với một lượng lớn nợ liên ngân hàng đã quá hạn từ lâu.
Tuy vẫn còn thiếu thanh khoản cục bộ, nhưng nhu cầu vốn của các ngân hàng này nằm trong lộ trình tái cơ cấu dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN nên rất khó để họ phát động một cuộc đua lãi suất mới. Do đó, việc nâng lãi suất huy động kỳ hạn từ 12 tháng như vài ngày qua chắc chắn không thể lan rộng và thời kỳ “quá độ” của lãi suất sẽ khó có điều kiện để kéo dài.

Monday, June 18, 2012

Cuộc chơi vì danh dự?


Một phiên bản của bài này trên TBKTSG
Thời gian gần đây, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam bỗng trở nên quan tâm đặc biệt đến việc phát hành trái phiếu quốc tế. VCB, Vietinbank, ACB và STB đều có kế hoạch, trong đó Vietinbank đã chính thức huy động được 250 triệu đô la Mỹ. Đâu là nguyên nhân của sự chuyển hướng này?
Huy động trong nước khó khăn
Hiện nay, trần lãi suất huy động đô la Mỹ (cá nhân: 2%/năm, tổ chức: 0,5%/năm) là rào cản lớn nhất đối với các NHTM trong việc huy động vốn ngoại tệ. Với trần lãi suất hiện tại, cộng với mức biến động giảm giá đồng Việt Nam khoảng 3%/năm thì mức lãi suất danh nghĩa đô la Mỹ mà cá nhân và tổ chức nhận được lần lượt là 5%/năm và 3,5%/năm. Mức chênh lệch so với lãi suất huy động tiền đồng vẫn còn khá cao. Đó là lý do khiến số dư huy động đô la Mỹ tại hầu hết các NHTM đều sụt giảm, mà nhóm các ngân hàng niêm yết mang tính đại diện (xem bảng).
Thời điểm
VCB
Vietinbank
ACB
STB
31-12-2011
68.059
30.313
16.984
8.155
31-3-2012
64.145
25.908(*)
15.635
7.729
(Nguồn: báo cáo tài chính riêng lẻ của các ngân hàng, ĐVT: tỷ đồng)
Ghi chú: số liệu trong bảng bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm bằng vàng và ngoại tệ, không bao gồm phát hành GTCG. Số dư huy động vàng chưa bị ảnh hưởng do chưa bị hạn chế, trong khi lãi suất huy động thời gian qua lại tăng. Do đó, phần giảm chính là tiền gửi ngoại tệ mà chủ yếu là đô la Mỹ.
Vẫn với lãi suất, nếu như trần lãi suất huy động tiền đồng có thể sẽ được gỡ bỏ trong thời gian tới thì trần lãi suất huy động đô la Mỹ gần như chắc chắn sẽ vẫn được duy trì lâu dài, bởi điều này nằm trong chiến lược chống đô la hóa của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Khi đó, khả năng huy động đô la Mỹ của hệ thống ngân hàng sẽ càng thêm khó khăn.
Từ cuối năm 2011, chính sách quản lý tỷ giá của NHNN có thể nói đã đạt được những thành công đáng ghi nhận. Tỷ giá VND/USD đã ổn định, biến động trong vòng kiểm soát, từ đó giúp khôi phục lại niềm tin vào tiền đồng. Thực tế cho thấy rằng, trong gần 1 năm qua, việc gửi tiết kiệm đô la Mỹ của dân cư đem lại tỷ suất lợi nhuận thấp hơn nhiều so với việc gửi tiết kiệm đồng Việt Nam. 5 tháng đầu năm 2012, những dữ liệu của thị trường và nền kinh tế đã và đang củng cố cho lập luận rằng, hiện nay và trong tương lai gần, giữ tiền đồng vẫn là lựa chọn tối ưu hơn so với đô la Mỹ.
Đối với doanh nghiệp, tỷ giá ổn định trong khi nhu cầu nhập khẩu sụt giảm (nhu cầu gom đô la Mỹ nhập vàng sắp tới cũng khó xảy ra) khiến doanh nghiệp cũng không còn ưu tiên nắm giữ đô la Mỹ bằng mọi giá như trước đây. Trong khi đó, lãi suất cho vay đô la Mỹ ở mức 6-8%/năm vẫn là một mức lãi suất hấp dẫn dù hiện nay các mục đích được vay ngoại tệ đã bị hạn chế. Điều này dẫn đến hiện tượng các NHTM dồi dào đô la Mỹ từ nguồn mua bán, song lại thiếu nguồn đô la Mỹ từ huy động, đặc biệt là đối với kỳ hạn dài (từ 3 tháng trở lên), hậu quả là mất cân đối huy động và cho vay.
Phát hành trái phiếu quốc tế là cách để các NHTM huy động đô la Mỹ dài hạn, phục vụ cho nhu cầu vay ngoại tệ trong nước. Đối với các NHTM quốc doanh như Vietinbank, VCB… thì thời gian qua họ liên tục được chỉ định tài trợ cho các dự án trọng điểm mà trong đó nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị là rất lớn. Với các dự án này, việc cần nguồn ngoại tệ dài hạn để tài trợ là hợp lý trước khi dự án có thể tạo ra nguồn thu.
Vì vốn hay vì danh dự?
Nhu cầu vốn ngoại tệ, đặc biệt là ngoại tệ kỳ hạn dài là một nhu cầu có thật. Tuy nhiên, liệu điều đó có bức bách đến mức khiến các NHTM phải lựa chọn thời điểm này để phát hành trái phiếu quốc tế hay không khi mà ngành ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung đang phải gánh chịu những tác động tiêu cực.
Các NHTM Việt Nam như VCB, Vietinbank, STB đang được Standard & Poor’s xếp hạng ở mức B+ (triển vọng từ tiêu cực đến ổn định), đây là mức đầu tư mang tính đầu cơ. Với mức xếp hạng như vậy, rất khó để các đơn vị này có thể huy động vốn từ trái phiếu quốc tế với mức lãi suất thấp. Trong các NHTM muốn phát hành trái phiếu quốc tế năm 2012, Vietinbank đã phải phát hành 250 triệu đô la Mỹ với mức lãi suất cố định (coupon) 8%/năm. Nếu tính thêm chi phí cho đợt phát hành, tổng chi phí qui lãi suất có thể sẽ gần đến 9%/năm, đây là mức quá cao so với chi phí huy động đô la Mỹ trong nước.
Tổng giá trị huy động của Vietinbank trong đợt phát hành vừa qua khoảng 5.000 tỷ đồng, chiếm 20% số dư huy động ngoại tệ (xem (*)) của Vietinbank tại thời điểm 31-3-2012 (Vietinbank không huy động vàng). Tính bình quân thì lãi suất huy động ngoại tệ vào khoảng 3-4%/năm, vẫn đảm bảo mức chênh lệch 3-4 điểm phần trăm so với lãi suất cho vay hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, mức lãi suất cho vay đô la Mỹ khoảng 6-8%/năm như hiện nay đang chứa đựng sự bất thường (không loại trừ khả năng vẫn có huy động lãi suất vượt trần), bởi lãi suất biên là quá lớn.
Kế hoạch ban đầu của Vietinbank là huy động 500 triệu đô la Mỹ, với mức lãi suất cố định không quá cao (khoảng 5-6%/năm). Tuy nhiên, kế hoạch đó đã thất bại và Vietinbank chỉ huy động 250 triệu với mức lãi suất lên đến 8%/năm. Có thể nói đây là cuộc chơi vì danh dự hơn là vì vốn, bởi tính riêng khoản huy động này, chi phí huy động đã cao hơn so với lãi suất cho vay đô la Mỹ hiện nay; nhưng nếu bỏ cuộc vì lãi suất cao, thì đó là một sự thất bại và sẽ khó khăn hơn nhiều cho Vietinbank cũng như các đơn vị khác trong các lần phát hành tiếp theo.
Với Vietinank nói riêng và những ngân hàng lớn của Việt Nam nói chung, họ hoàn toàn có thể huy động vốn ngoại tệ từ các tổ chức tài chính quốc tế với chi phí huy động thấp hơn. Bên cạnh đó, mức thiếu hụt nguồn đô la Mỹ huy động có thể khắc phục được nếu các ngân hàng này liên kết với các NHTM nhỏ hơn. Rất nhiều trong số các ngân hàng nhỏ hiện chủ yếu dùng nguồn đô la Mỹ huy động làm tài sản bảo đảm để vay vốn trên thị trường liên ngân hàng thay vì cho khách hàng vay trực tiếp ngoại tệ bởi hạn chế về tăng trưởng tín dụng cũng như về nguồn khách hàng có nhu cầu đô la Mỹ trong thanh toán quốc tế.
Kinh nghiệm của Vietinbank trong đợt phát hành trái phiếu quốc tế vừa rồi là bài học bổ ích cho các đơn vị còn lại, những NHTM muốn tìm kiếm nguồn vốn ngoại tệ dài hạn theo con đường này. Khi huy động bằng trái phiếu quốc tế, thời điểm phát hành là cực kỳ quan trọng. Với tham vọng trở thành những ngân hàng hàng đầu, vượt ra khỏi biên giới, làm bệ đỡ cho hệ thống ngân hàng quốc gia (như định hướng của Thống đốc và đề án tái cơ cấu ngân hàng) thì phát hành trái phiếu quốc tế thành công là một trong những bước khởi đầu cho tham vọng ấy. Trên con đường chông gai đó, trong từng trường hợp, có thể đánh đổi để khẳng định mình (nhưng đừng quá đắt), âu đó cũng là điều chấp nhận được.

Saturday, May 5, 2012

Một quyết định nhiều hệ lụy

Lê Duy Khánh
Một phiên bản của bài này đăng trên TBKTSG.

Cơ cấu nợ và các vấn đề liên quan

Trong hoạt động ngân hàng, dư nợ tín dụng được chia thành các nhóm theo thứ tự tăng dần về mức độ rủi ro từ 1 đến 5. Nợ nhóm 1 là các khoản nợ trong hạn và được tổ chức tín dụng (TCTD) đánh giá là có thể thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Trong khi đó, nợ từ nhóm 2 trở đi là những khoản nợ đã trễ hạn thu hồi (gốc và/hoặc lãi), nghĩa là mức độ thu hồi đã bị suy giảm; nhóm nợ càng cao thì khả năng thu hồi càng kém. Các nhóm nợ này gọi chung là nợ quá hạn, trong đó nợ từ nhóm 3 trở đi còn có tên gọi riêng là nợ xấu.

Nợ xấu là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng nói riêng và sức khỏe nói chung của một ngân hàng, hay cao hơn là cả hệ thống TCTD. Hiện nay, các TCTD đang áp dụng qui định phân loại nợ theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN (quyết định 493) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN về sửa đổi, bổ sung quyết định 493. Cùng với việc phân loại nợ, các TCTD bắt buộc phải trích lập một khoản dự phòng cụ thể theo tỷ lệ phần trăm của phần chênh lệch giữa dư nợ thực tế và giá trị tài sản bảo đảm qui đổi. Số tiền trích lập dự phòng này phải tính vào chi phí hoạt động của TCTD và sẽ được sử dụng khi TCTD không thu được nợ (một phần hoặc toàn bộ). Nhóm nợ càng cao, tỷ lệ trích lập dự phòng càng lớn (nhóm 1: 0%, nhóm 2: 5%, nhóm 3: 20%, nhóm 4: 50% và nhóm 5: 100%).

Theo qui định, nếu các khoản nợ ở nhóm 1 nhưng hiện tại khách hàng đang gặp khó khăn trong việc trả nợ, TCTD có thể xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ (bao gồm điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ) nếu như TCTD đánh giá là khách hàng có khả năng trả nợ sau khi được cơ cấu lại. Tuy nhiên, việc cơ cấu nợ luôn phải đi kèm với việc điều chỉnh tăng nhóm nợ. Nếu điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu, khoản nợ sẽ chuyển sang nhóm 2 (thành nợ quá hạn); nếu gia hạn nợ lần đầu, khoản nợ sẽ chuyển sang nhóm 3 (thành nợ xấu). Những lần cơ cấu nợ tiếp theo, nhóm nợ sẽ tiếp tục tăng lên. Sự thay đổi nhóm nợ khi cơ cấu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động, chi phí, uy tín… của các khách hàng và TCTD.

Đâu là động lực?

Ngày 23-4 vừa qua, NHNN ban hành quyết định 780/QĐ-NHNN (quyết định 780) về phân loại nợ đối với nợ được cơ cấu lại. Theo đó, chấp thuận việc các TCTD giữ nguyên nhóm nợ nếu TCTD đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi cơ cấu nợ. Có thể nói đây là quyết định mang tính “lịch sử” của NHNN, bởi nó sẽ gây ra nhiều hệ lụy khó lường.

Đâu là động lực để NHNN ban hành quyết định này, vì lợi ích của khách hàng hay của các TCTD? Đứng trên góc độ khách hàng, quyết định này sẽ giúp họ giảm được áp lực trả nợ trước mắt, song không phải gánh chịu thêm khoản lãi suất phạt (thường lên đến 50% lãi suất trong hạn) khi nợ được cơ cấu lại. Điều này giống như việc giãn thuế cho cá nhân, doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn. 
Với mức độ sử dụng đòn cân nợ khá cao của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, dù không giải 
quyết được khó khăn trong dài hạn, đây chắc chắn là một quyết định được đón nhận.

Đối với hệ thống các TCTD, trước khi quyết định 780 được ban hành, họ không có động lực để cơ cấu lại nợ cho khách hàng dù trước đó NHNN đã có văn bản số 2056/NHNN-CSTT ngày 10-4 đề nghị các TCTD thực hiện điều này. Thế nhưng, từ nay đến khi quyết định 780 bị bãi bỏ, các TCTD sẽ “tự nguyện” cơ cấu nợ cho khách hàng, dựa trên những lý do sau:

Thứ nhất, khi khả năng trả nợ của khách hàng đã và đang suy giảm thấy rõ, việc cơ cấu lại nợ sẽ hạn chế được việc gia tăng nợ quá hạn, nợ xấu cho TCTD. Điều đó đồng nghĩa với việc không làm tăng chi phí do phải tăng trích lập dự phòng tín dụng, giúp thuận lợi hơn trong việc thực hiện các mục tiêu lợi nhuận.

Thứ hai, lãnh đạo TCTD sẽ dễ dàng kiểm soát nợ quá hạn, nợ xấu (nếu TCTD cơ cấu cho các khoản nợ từ nhóm 2 thì họ có thể cố định được nợ xấu từ nay đến cuối năm, thậm chí xa hơn) theo các tiêu chí đã được thông qua bởi đại hội đồng cổ đông như là một cách chứng tỏ năng lực quản lý, điều hành nếu bản chất của các khoản nợ không được làm rõ.

Thứ ba, nợ xấu luôn là vấn đề nhạy cảm và không TCTD nào muốn khách hàng, nhà đầu tư của mình thấy tỷ lệ này đang quá cao. Nó không chỉ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu mà còn ảnh hưởng đến uy tín của các TCTD, đến sự ổn định của những hoạt động thường ngày như huy động vốn, cho vay, thanh toán…

Thứ tư, kiểm soát tốt nợ xấu là điều kiện để các TCTD mở rộng hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới. Nhiều TCTD sẽ bắt tay ngay vào quá trình cơ cấu nợ cho khách hàng để giữ vững, không làm xấu thêm bảng cân đối khi mà dự kiến tháng 6 này, NHNN sẽ đánh giá lại năng lực của các TCTD và có thể điều chỉnh lại hạn mức tăng trưởng tín dụng đã giao đầu năm.

Tái cơ cấu hệ thống thêm khó khăn

Về bản chất, gia hạn nợ mà không làm chuyển nhóm nợ là một hình thức đảo nợ. Việc một khoản nợ được kéo dài thời hạn trả nợ giống như một khoản cấp tín dụng mới mà không cần chứng minh mục đích sử dụng vốn. Như vậy, với văn bản mới này, NHNN đã gián tiếp cho phép đảo nợ mà lâu nay, NHNN vẫn cấm hoặc vẫn ghi là theo hướng dẫn riêng mà chưa bao giờ hướng dẫn.

Nhìn vào mức độ trầm trọng của tình trạng thiếu hụt thanh khoản, sẽ khó ai tin rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ có 3,6% (dù có tăng lên từ mức 3,2% cuối năm 2011). Điều đó có nghĩa là nợ xấu của hệ thống ngân hàng nếu tính đúng, chắc chắn sẽ cao hơn nhiều so với số công bố. Việc không có dữ liệu chính xác về nợ xấu đã là điều rất nguy hiểm, thế nhưng từ nay số liệu về nợ xấu đã không còn mấy ý nghĩa. Hoạt động của hệ thống TCTD đã rất méo mó, nay sẽ càng méo mó hơn.

Chờ đợi vào sự tự giác của hệ thống các TCTD trong việc phân loại nợ gần như là điều xa xỉ. Nay rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại) lại càng trở nên quá lớn khi quyết định 780 ra đời. Sau việc được bơm hàng ngàn tỷ đồng với lãi suất thấp để các ngân hàng yếu đủng đỉnh “tái cơ cấu” mà không kèm theo những chế tài đủ nghiêm khắc đối với hậu quả mà các ngân hàng này gây ra cho hệ thống tài chính, cho nền kinh tế thì nay cả hệ thống sẽ có cơ sở để tin rằng, trong mọi trường hợp, NHNN luôn nghĩ ra những “diệu kế” để cứu họ, bởi quyết định 780 có mang danh nghĩa hỗ trợ khách hàng thì cái lợi cho ngân hàng thực tế vẫn nhiều hơn.

Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đang là quá trình được đặt nhiều kỳ vọng, tuy nhiên, qua những bước đi ban đầu đã cho thấy những lo ngại. Kỷ luật thị trường đáng lẽ cần phải siết chặt hơn nữa để bảo đảm cho sự thành công của quá trình tái cơ cấu thì có vẻ như NHNN đang có những bước đi theo hướng ngược lại. Tín dụng bất động sản (nguồn gốc của nợ xấu) đã được mở toan, trần lãi suất giảm quá nhanh khi mà thanh khoản của hệ thống đang thiếu cục bộ dẫn đến vượt trần lãi suất vẫn tràn lan, vai trò của NHNN vẫn rất mờ nhạt trong các thương vụ hợp nhất, sáp nhập ngân hàng đã và sắp diễn ra ngoài việc luôn công bố thông tin một cách lấp lửng (dưới danh nghĩa bảo đảm an toàn hệ thống)… Còn sắp tới đây, tái cơ cấu sẽ dựa vào đâu khi mà nợ xấu, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá sức khỏe ngân hàng, không còn ai tin tưởng.

Tái cơ cấu ngân hàng lần này được ví như việc phải loại bỏ các ung nhọt vốn đã tồn tại quá lâu, để trả lại cho hệ thống một cơ thể khỏe mạnh. Đó chắc chắn là quá trình rất đau đớn và kéo dài. Vì vậy đòi hỏi sự quyết liệt và kiên trì của bác sĩ và gia đình người bệnh. Nếu vì khó khăn hay vì một “lý do” nào đó mà thay thuốc đặc trị ung thư bằng thuốc an thần để có được những phút giây tươi tỉnh nhất thời thì chắc chắn chỉ tốn kém, mà cơ thể vẫn tiếp tục ốm yếu nếu không muốn nói là một cái chết được báo trước vẫn chực chờ. Hi vọng NHNN sẽ không giơ cao đánh khẽ.

Tuesday, April 17, 2012

Hoa mùa hạ

Mùa hoa gạo tháng 3

Hoa gạo đỏ tươi
Bên dòng nước
Bên ao làng
Loa kèn
Gánh hoa 
Ảnh: báo Giáo dục Việt Nam

Saturday, April 14, 2012

Sacombank đã xong!

Mấy ngày nay, liên tiếp các thông tin về việc các cổ đông lớn hiện hữu của Sacombank đăng ký bán cổ phiếu. Lần lượt Sacomreal, ông Chang Heng Jui, Bourbon Tây Ninh và nay là Thành Thành Công thoái vốn. Đế chế Đặng Văn Thành chính thức sụp đổ!
Có thể gia đình ông Thành sẽ mua lại một ngân hàng khác, biết đâu được! Bởi sự thất bại này của ông Thành là không thể chấp nhận được.

Lý thuyết kinh tế

Đọc bài "Hãy kiên nhẫn thêm chút nữa" trên TBKTSG, thấy cách lý luận này rất giống với lý thuyết trong giáo khoa kinh tế vĩ mô.
Điều quan trọng là bài được sự hỗ trợ của bảng số liệu về tốc độ tăng chi tiêu hàng hóa thực (có thể hiểu là tổng cầu). Theo số liệu thì tổng cầu có xu hướng phục hồi trong 3 tháng đầu năm 2012. Điều này phù hợp với lý thuyết nào?
Lạm phát cao, lãi suất cao đã làm giảm tổng cầu, tuy nhiên trong thời gian gần đây, lạm phát đã được kiềm chế, điều này giúp chi tiêu của hộ gia đình tăng đã hỗ trợ tổng cầu.
Lãi suất tăng quá cao trong khi giá đang có xu hướng không tăng kịp, điều này làm hàng tồn kho gia tăng và doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, làm giảm tổng cung.
Lãi suất đã giảm, điều này sắp tới sẽ có hỗ trợ cho đầu tư (I) và xuất khẩu ròng, sẽ góp phần hỗ trợ tổng cầu. Nhưng điều này không tác động ngay, sẽ có thời gian và thời gian đó là cần thiết để loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém.

Friday, April 13, 2012

Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn

Trong dài hạn, tổng cung của nền kinh tế phụ thuộc vào: lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ. Điều này cho thấy tổng cung dài hạn không phụ thuộc vào mức giá của nền kinh tế. Đường tổng cung dài hạn là một đường thẳng đứng. Sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn gọi là sản lượng toàn dụng hay sản lượng tiềm năng. Tổng cung trong dài hạn dịch chuyển phụ thuộc vào sự thay đổi của 4 yếu tố trên.
Còn trong ngắn hạn, sản lượng của nền kinh tế sẽ dao động xung quanh sản lượng tiềm năng. Tổng cung trong ngắn hạn phụ thuộc vào mức giá, và có quan hệ nghịch chiều, tức đường tổng cung ngắn hạn là đường dốc lên. Việc dốc lên này được giải thích dựa vào 3 lý thuyết:
- Lý thuyết nhận thức sai lầm: tức là giá cả của hàng hóa giảm xuống, mặc dù mức giá giảm chung nhưng con người luôn có sự nhận thức sai lầm về sự giảm giá này. Đó là, đối với nhà sản xuất, khi giá hàng hóa của họ giảm, họ có xu hướng nhận thấy rằng hình như chỉ có giá hàng hóa của họ giảm, hoặc là chỉ có giá hàng hóa của họ là giảm mạnh nhất. Từ đó dẫn đến việc giảm sản lượng cung ứng. Việc giảm sản lượng cung ứng này sẽ diễn ra ở qui mô toàn nền kinh tế, tổng cung của nền kinh tế trong ngắn hạn sụt giảm.
Việc nhận thức đúng phải là mức giá giảm ở hầu hết các mặt hàng, và khi đó sẽ không có lý do để giảm nguồn cung ứng của mặt hàng do công ty mình phụ trách vì giá tương đối không thay đổi (giá tương đối là giá so sánh giữa các hàng hóa với nhau).
- Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: xuất phát từ những hợp đồng lao động có thời gian từ 2 năm, và trong khoản thời gian đó, tiền lương danh nghĩa ít thay đổi trong khi tiền lương thực tế thay đổi từng ngày.
Khi giá hàng hóa giảm xuống mà tiền lương danh nghĩa không đổi, tức là tiền lương thực tế tăng lên. Do chí phí lương là chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ cân nhắc cắt giảm lao động để giảm chi phí, chính điều này ảnh hưởng đến nguồn cung của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
- Lý thuyết giá cả cứng nhắc: xuất phát từ chi phí thực đơn (nhà sản xuất có xu hướng chậm điều chỉnh giá do mỗi lần điều chỉnh là mỗi lần tốn chi phí in catalouge, báo giá mới...). Khi giá hàng hóa đã giảm mà doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp giá bán của mình dẫn đến hàng hóa đắt hơn mức kỳ vọng của thì trường. Điều này sẽ làm doanh số bán sụt giảm, dẫn đến nguồn cung sụt giảm.

Tất cả cách giải thích này chỉ phù hợp trong ngắn hạn. Trong dài hạn, nhận thức sai lầm sẽ được điều chỉnh, tiền lương danh nghĩa sẽ thay đổi, giá cả cũng không còn cứng nhắc.