Đây là bản dịch bài viết trên Economist ngày 2/2/2013, bản gốc tại đây.
Thời kỳ tươi sáng sẽ không trở lại cho đến khi những ngân hàng yếu được giải quyết
Vụ bắt giữ các cựu ông chủ nhà băng chỉ là
những gì mà nhiều người trong thế giới giàu có mong muốn được nhìn thấy. Ở Việt Nam,
điều đó đã trở thành việc xảy ra thường xuyên. Hôm 23 tháng Giêng, Chính phủ
tuyên bố họ đã bắt giữ Phạm Thanh Tân, cho đến hiện tại vẫn là TGĐ của
Agribank, ngân hàng lớn nhất của nước này (Ông Tân đã chuyển sang NHNN, không
còn làm ở Agribank – Lê Duy Khánh). Vụ bắt giữ này là vụ bắt giữ thứ 5 của một
quan chức Agribank trong nhiều tháng qua; 4 gương mặt trước đó phải chịu trách
nhiệm cho sự tham ô và chiếm dụng tài sản lên đến tổng cộng khoảng 7 triệu đô
la Mỹ.
Trở lại hồi tháng 8, vụ bắt giữ một người
đứng đầu của một ngân hàng lớn khác, ACB, đã dẫn đến sự sụt giảm của thị trường
chứng khoán và sự rút tiền ngân hàng hàng loạt. 6 tháng sau, thị trường đã phản ứng
“vừa đủ” với thông tin ông Tân bị bắt. Nhà đầu tư đã quen với những tin xấu từ
lĩnh vực ngân hàng nên bỏ qua chúng.
5 năm trước, Việt Nam đã bay cao
như là một mãnh hổ quyến rũ nhất khu vực châu Á. Tuy nhiên, hai năm gần đây,
tốc độ tăng trưởng của quốc gia này đã chậm lại. Những khoản nợ “chua loét” của
các doanb nghiệp nhà nước, cùng với sự đổ vỡ của bong bóng tài sản, đã để lại
tình trạng quản lý yếu kém của quốc gia và các ngân hàng “bí mật” một tình
trạng lộn xộn, bừa bãi. Nhiều người đã gặp rắc rối vì thực hiện những khoản
giải ngân thiếu thận trọng trong thời hoàng kim, thường có liên quan đến những
qui định của Đảng cộng sản. Những nhà quản lý bị bát giữ trước đây hoặc là do
đút lót, quản lý yếu kém hoặc là “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiệm trọng”
như trường hợp của ông Tân.
Sự khốn cùng của các ngân hàng có cảm giá
đang mở rộng. Sự siết chặt tín dụng đã đẩy một số lượng kỷ lục các doanh nghiệp
phá sản trong 02 năm qua. Như Jonathan Pincus, nhà kinh tế đang sống ở Tp.HCM,
cho rằng, cuộc khủng hoảng ngân hàng “sẽ kìm hãm sự phát triển trong một thời
gian rất dài trừ khi điều này được giải quyết”.
Sau nhiều năm của việc giảm được số lượng
nợ xấu trong hệ thống, nay chính quyền ít nhất đã thừa nhận sự nghiêm trọng của
tình trạng này. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng trung ương của quốc
gia này, năm ngoái đã tăng dự báo của họ về tổng mức tỷ lệ nợ xấu của các ngân
hàng lên đến 8.8%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nhưng tình trạng không minh
bạch của ngành công nghiệp này mà nhiều nhà phân tích nghi ngờ con số thực có
thể cao gấp đôi. Ngân hàng Standard Chartered cho rằng tỷ lệ này ở mức 15-20%.
NHNN đang cố gắng làm giảm qui mộ của khu
vực này. 9 ngân hàng yếu hơn được khuyến khích hợp nhất hoặc sáp nhập vào những
ngân hàng lớn hơn, một số đã thực hiện. Sự củng cố hơn nữa là cần thiết. Hiện
có khoảng 04 ngân hàng nội địa, nhiều người nghĩ rằng con số này nên ở mức 25.
NHNN đang cố gắng hỗ trợ cho những ngân
hàng tốt với việc thu hút thêm các khoản vốn từ nước ngoài. Đã có một số thành
công, đặc biệt là từ đối tác Nhật bản. Họ đang nám giữ lợi thế của một đồng
tiền mạnh để mua được với giá tương đối rẻ, và để đa dạng hóa các các khoản đầu
tư của họ ở châu Á trong cùng thời gian. Ngày 27/12/2012, Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ tuyên
bố rằng họ đã mua 20% cổ phần của Vietinbank, trị giá 743 triệu đô la Mỹ. Vụ
mua bán này tiếp theo thương vụ Mizhuho mua 15% cổ phần của Vietcombank, trị
giá 567 triệu đô la Mỹ, vào tháng 9/2011.
Để khuyến khích nhiều hơn những thương vụ
như vậy, NHNN đã đệ trình một dự thảo thông tư lên chính phủ rằng sẽ cho phép
nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đến 30% vốn của các ngân hàng trong những hoàn
cảnh nhất định, tăng tư mức 20% hiện tại. Những người nước ngoài khác có thể
thận trọng hơn. Khu vực ngân hàng vẫn cần phải xem xét lại toàn bộ. Sự minh
bạch hơn nữa trong việc báo cáo là cần thiết; nên ít đi tình trạng sở hữu chéo
(cross-ownership); kế toán phải tiếp cận chuẩn mực quốc tế. kế hoạch của Chính
phủ thành lập công ty quản lý nợ xấu, hay là “ngân hàng xấu” để hấp thu/xử lý
nợ xấu của các ngân hàng là không rõ ràng. Đặc biệt, không ai biết chính xác sẽ
phải trả tiền để mua những khoản nợ bỏ đi. Bởi như Phạm Hồng Hải ở HSBC Viet Nam
rằng “không có bất kỳ con đường nào để xử lý vấn đề này trừ khi phải trả giá
bằng những sự đau đớn”.