Saturday, May 24, 2014

Thủ tướng: 'Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông'

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.
tt-ntd-3692-1400736955.jpg
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong một cuộc họp báo tại Philippines. Ảnh: Nhật Bắc
Trong chuyến thăm và làm việc tại Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận được nhiều câu hỏi của báo giới nước ngoài về vấn đề Biển Đông, thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết.

Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc liệu Việt Nam có nộp đơn kiện Trung Quốc theo các cơ chế của luật pháp quốc tế hay giải quyết căng thẳng bằng biện pháp quân sự, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Bạn hỏi về biện pháp quân sự? Không".

"Việt Nam đã chịu nhiều đau thương mất mát từ các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì thế, chúng tôi luôn tha thiết có hòa bình, hữu nghị để xây dựng và phát triển đất nước. Chúng tôi không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự, không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi chúng tôi bị bắt buộc phải tự vệ".

Thủ tướng khẳng định Việt Nam luôn nhất quán sử dụng các biện pháp hòa bình và tận dụng mọi cơ hội, mọi kênh đối thoại để giải quyết tình hình hiện nay một cách hòa bình.
"Chúng tôi đã hết sức chân thành, thực tâm, thiện chí và kiềm chế, nhưng câu trả lời hiện nay là Trung Quốc ngày càng gia tăng sức mạnh, các hành động uy hiếp và xâm phạm, rồi liên tục vu khống và đổ lỗi cho Việt Nam. Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc nói", Thủ tướng cho biết.

Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó".

"Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế", Thủ tướng nói tiếp.
Ngoài ra, Thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào để chống lại một quốc gia khác và đây là chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam.
Việt Nam đã thông báo và thông tin trung thực việc Trung Quốc đã hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép, xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông đến các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, chính giới và các học giả, truyền thông quốc tế.

Những ngày qua, Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, lãnh đạo nhiều nước trên thế giới, nhiều cá nhân và tổ chức quốc tế đã lên tiếng bày tỏ quan ngại sâu sắc về mối đe dọa của sự việc này đối với hòa bình, an ninh, ổn định trong khu vực. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ tin tưởng rằng cộng đồng quốc tế tiếp tục có đánh giá đúng và tiếng nói thích hợp để ngăn chặn mối đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

"Việt Nam kêu gọi cộng đồng quốc tế, các nước, các cá nhân và tổ chức quốc tế tiếp tục lên tiếng phản đối mạnh mẽ hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc", Thủ tướng nói.
Về mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc mối quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam và Trung Quốc vì điều này không chỉ đem lại lợi ích cơ bản và lâu dài cho hai nước Việt - Trung mà còn đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. "Còn ngược lại, chắc các bạn hoàn toàn có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra", Thủ tướng nói.
Trước báo chí quốc tế, Thủ tướng nhấn mạnh rằng Việt Nam đặc biệt coi trọng và luôn làm hết sức mình đóng góp vào việc gìn giữ và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp với Trung Quốc. 

Việt Nam luôn chân thành mong muốn cùng Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
"Đối với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam, Việt Nam cực lực phản đối các hành động xâm phạm này và kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích chính đáng của mình phù hợp với luật pháp quốc tế", Thủ tướng khẳng định.
Thanh Bình
vnexpress.net

Saturday, April 5, 2014

Bầu Kiên và các ngân hàng



Bài đăng trên TBKTSG số ra ngày thứ Năm 03/4/2014, số 14-2014, trang 12-13. Đây là bản gốc.

Nhớ lúc Bầu Kiên (tức Nguyễn Đức Kiên) bị bắt vào ngày 20/8/2012, đồng loạt nhiều ngân hàng lên tiếng phủ nhận vai trò chi phối của ông tại đơn vị mình. Tuy vậy, thị trường vẫn “hiệu quả” khi các chỉ số chứng khoán sụt giảm mạnh, các ngân hàng ACB, Eximbank… đã mất hàng chục ngàn tỷ đồng tài sản khi Bầu Kiên vướng vòng lao lý. Bài viết này hi vọng cung cấp cho người đọc thêm một số thông tin về chân dung một ông trùm tài chính, về cách nhân vật này thao túng ACB và cả thị trường ngân hàng, khi vụ án sắp được đưa ra xét xử.

Hiện thân của sở hữu chéo

Nguyễn Đức Kiên đã thành lập 6 công ty (viết tắt là B&B, AFG, ACBI, ACI, ACI-HN và Thiên Nam) góp vốn lẫn nhau với số vốn điều lệ đăng ký khổng lồ (tổng cộng 5.811 tỷ đồng), có nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau, nhưng hoạt động chủ yếu là đầu tư góp vốn và kinh doanh vàng. Với chức vụ Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập của ACB nhưng giữ vai trò chi phối (như lời khai của nguyên tổng giám đốc ACB Lý Xuân Hải đã được báo chí nhiều lần đăng tải), Kiên đã rút tiền từ ACB thông qua các công ty này và từ đó, nắm quyền chi phối nhiều ngân hàng và doanh nghiệp khác.

Phương thức rút vốn chủ yếu của Kiên là thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. ACB sẽ là người mua trái phiếu của các doanh nghiệp do Kiên làm chủ (tháng 11/2010: B&B: 1.000 tỷ đồng, ACBI: 800 tỷ đồng, ACI: 650 tỷ đồng…). Bên cạnh đó, tháng 3/2008, MHB cũng đã mua 500 tỷ đồng trái phiếu từ một công ty khác của Kiên là ACI; hay ngân hàng Phương Nam mua 400 tỷ đồng trái phiếu của AFG cùng thời gian này…

Với số tiền có được, cùng với vốn góp ban đầu, Kiên đã dùng để mua cổ phiếu và chi phối ở hàng loạt các doanh nghiệp và cả ở nhiều ngân hàng, trong đó có thể kể như VietBank, Kien Long Bank, DaiABank, Eximbank, Techcombank… Sau khi đã có ảnh hưởng ở nhiều ngân hàng, vòng xoáy rút tiền của Kiên sẽ được nhân lên khi các công ty của Kiên có thể vay vốn tại các ngân hàng này chứ không chỉ có ở ACB. Các ngân hàng này có thể sử dụng tiền huy động từ dân cư và tổ chức để cho các công ty của Kiên vay, cũng có thể ACB sẽ là người rót vốn qua thị trường liên ngân hàng cho những ngân hàng “con” này, để các ngân hàng này thực hiện nhiệm vụ “được phân công”.

Trường hợp Bầu Kiên là minh họa sống động cho mặt trái của tình hình sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. Từ một ngân hàng ban đầu, dùng tiền của ngân hàng này để chi phối nhiều ngân hàng và doanh nghiệp (trường hợp Bầu Kiên là mua cổ phiếu của khoảng 15 công ty khác) bằng nhiều cách khác nhau. Thao túng thị trường, lũng đoạn hệ thống, vốn chạy lòng vòng, và đổ vào các công ty sân sau của các ông chủ. Mình Bầu Kiên đã vậy, hãy tưởng tượng hệ thống ngân hàng có nhiều Bầu Kiên thì sao?

Thua lỗ vì kinh doanh vàng

Với nguồn tài chính gần như vô tận, Bầu Kiên có lẽ bước vào lĩnh vực kinh doanh vàng từ tháng 11/2009, gồm cả kinh doanh vàng trạng thái ở nước ngoài và kinh doanh vàng trong nước.  Tính đến 7/2010, tức thời điểm phải đóng trạng thái vàng trên tài khoản ở nước ngoài theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bầu Kiên giao dịch thông qua công ty Thiên Nam tổng cộng (theo cáo trạng) 462.500 ounce, trị giá 512.915.325 USD (tương đương 9.796 tỷ đồng) và thua lỗ tổng cộng 413,67 tỷ đồng. Số tiền này ACB cho Thiên Nam nhận nợ đến năm 2015. Bên cạnh đó, kinh doanh vàng trong nước của Kiên cũng góp thêm khoản lỗ 19,66 tỷ đồng, nâng tổng mức lỗ trong kinh doanh vàng của Kiên lên 433,33 tỷ đồng. Tuy nhiên, ở một công ty khác, B&B thông qua ủy thác đầu tư và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài cho ACB, B&B đã thu được hơn 100 tỷ đồng tiền lãi. Nếu chỉ có kinh doanh vàng ở hai công ty này như cáo trạng đề cập, Bầu Kiên lỗ tổng cộng khoảng 333 tỷ đồng, cộng với một mái đầu bạc trắng.

Cố ý làm trái và gây hậu quả nghiêm trọng

Việc Hội đồng quản trị ACB ủy thác cho 19 nhân viên của mình gửi tiền vào Vietinbank dẫn đến số tiền 718 tỷ đồng chưa thể thu hồi đã được xét xử ở vụ án của Huỳnh Thị Huyền Như vừa diễn ra phiên sơ thẩm. Ở vụ án lần này, Kiên và các lãnh đạo của ACB bị truy tố cho hành vi “cố ý làm trái các qui định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Cụ thể đó là ủy thác “trái pháp luật” theo Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng 2010.

Có hai điều cần bàn liên quan đến hành vi này. Thứ nhất, về phần cố ý làm trái. Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng 2010 chỉ có một điều khoản duy nhất và cho phép các ngân hàng thương mại được quyền ủy thác theo qui định của NHNN. Có thể hiểu qui định của NHNN hiện hành là Thông tư số 04/2012/TT-NHNN ngày 8-3-2012, nhưng việc ủy thác của ACB đã diễn ra trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9/2011. Trước khi có Thông tư 04, thì NHNN chỉ ban hành qui định về ủy thác cho vay (Quyết định số 742/2002/QĐ-NHNN ngày 17-7-2002). Là người bình thường, rất khó hiểu các lãnh đạo của ACB đã vi phạm pháp luật như thế nào!

Thứ hai, đó là “gây hậu quả nghiêm trọng”, cụ thể ở đây là việc chưa thu hồi được số tiền 718 tỷ đồng về. Trong cáo trạng vụ Bầu Kiên, Viện kiểm sát đã nhận định “toàn bộ số tiền gửi đã bị Huỳnh Thị Huyền Như (quyền trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ thuộc Vietinbank chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh) sử dụng các thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt, gây thiệt hại cho ngân hàng ACB”. Rõ ràng có sự “thống nhất” về cách nhận định của Viện kiểm sát trong hai vụ án khác nhau về cùng vấn đề này, và cách nhận định này được sử dụng để làm cơ sở xác định tội danh cho các lãnh đạo của ACB. Đối tượng bị thiệt hại là ACB, và Huyền Như là người chiếm đoạt chứ không phải nghĩa vụ trả nợ thuộc về Vietinbank.

Tuy nhiên, vụ án Huyền Như mới chỉ xử sơ thẩm, chưa có kết quả cuối cùng thì chưa thể xác định ai có trách nhiệm hoàn trả số tiền này. Ngay cả trong trường hợp kết quả cuối cùng là Huyền Như phải hoàn trả cho ACB chứ không phải Vietinbank, thì số tiền thất thoát cũng chưa thể xác định một cách chính xác là bao nhiêu.

Vậy cơ sở để truy tố các lãnh đạo ACB theo tội danh này, xem chừng rất mong manh. Thôi thì cứ xử, rồi chờ phiên phúc thẩm chăng?

Friday, March 21, 2014

Sáp nhập Phương Nam, Sacombank nhận được gì?

Bài trên TBKTSG số ra ngày 20/3/2104, số 12-2014, trang 14-16


(TBKTSG) - Mới đầu năm, thị trường ngân hàng tiếp tục ghi nhận thông tin về một thương vụ sáp nhập nữa, lần này sẽ là giữa Sacombank và Phương Nam Bank (PNB). Hãy xem Sacombank sẽ nhận được gì từ thương vụ này, hay đơn thuần sáp nhập là xu thế của thị trường, hay để giải quyết những vấn đề nào khác?

Quá khứ lẫy lừng

Sau lần sáp nhập này, cái tên Ngân hàng Phương Nam sẽ biến mất khỏi thị trường ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều người biết rằng, trong lịch sử ra đời và phát triển 21 năm của mình, PNB là một trong những ngân hàng có vai trò khá nổi bật trong hệ thống, khi tham gia tái cơ cấu cho khá nhiều ngân hàng và quỹ tín dụng nhân dân, vào những năm 2003 trở về trước.

Nhiều nhân sự của PNB vẫn kể cho các thế hệ sau về lịch sử “lẫy lừng” mà họ đã từng trải qua, về những tháng ngày họ ăn ngủ ở các tỉnh sông nước miền Tây để sáp nhập các ngân hàng Đồng Tháp, Cái Sắn (Cần Thơ)... hay dấn thân ra đất Bắc để mua lại Quỹ Tín dụng Định Công (Thanh Trì, Hà Nội). Đó là những năm tháng hạnh phúc, PNB giữ vai trò một ngân hàng mạnh, ra tay giúp đỡ những đơn vị hoạt động khó khăn.

Bốn ngân hàng và một quỹ tín dụng nhân dân đã sáp nhập vào PNB hoặc được PNB mua lại, trong đó thương vụ cuối cùng diễn ra cách đây hơn 10 năm, vụ sáp nhập Ngân hàng Nông thôn Cái Sắn vào năm 2003. Trước đó, Ngân hàng TMCP Đồng Tháp (1997), Đại Nam (1999), Quỹ Tín dụng Định Công (2000) và Ngân hàng TMCP Nông thôn Châu Phú (2001) đã lần lượt biến mất mà nhiều vị trí đang làm việc tại PNB ngày hôm nay xuất thân từ các đơn vị này, là minh chứng cho sự từng tồn tại của họ.

Tuy nhiên, có lẽ PNB chỉ được nhiều người biết đến trước kia, còn trong vòng 7-8 năm gần đây, hình ảnh PNB trên thị trường không còn nổi bật, luôn gắn liền với những khó khăn về thanh khoản, không rõ phương hướng phát triển, và khi nói đến PNB, người ta nói đến một ngân hàng gia đình, cùng “ông chủ” của nó, ông Trầm Bê.

Rủi ro hiện hữu từ danh mục đầu tư

Đến cuối quí 3-2013, tổng tài sản của PNB đạt 74.172 tỉ đồng, gần như không biến động so với đầu năm (74.285 tỉ đồng). Đồng thời dư nợ cho vay của PNB cũng bất động, ở mức 43.367 tỉ đồng so với mức 43.462 tỉ đồng đầu năm. Nhìn tổng thể hoạt động của PNB trong ba quí năm 2013, sự thay đổi đáng kể chỉ diễn ra ở ba khoản mục chính, tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của khách hàng và các khoản phải thu.

Dư nợ cho vay của PNB không có sự thay đổi về mặt con số tuyệt đối, tuy nhiên về cơ cấu đã có điều chỉnh, dù không nhiều. Ở đây tạm thời sử dụng báo cáo tài chính của PNB quí 3-2013 và năm 2012 để xem xét danh mục cho vay của ngân hàng này do PNB chưa công bố số liệu năm 2013.

Đến 30-9-2013, hoạt động tín dụng của PNB chiếm 58,4% tổng tài sản, tập trung chủ yếu vào bốn mục đích, bao gồm cho vay xây dựng (17%), kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn (10%), phục vụ cá nhân và cộng đồng (31%) và phần lớn nhất là thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, đồ dùng cá nhân và gia đình (38%, giảm từ 45% cuối năm 2012). Đây là cơ cấu đầu tư thiếu đa dạng và mang đậm màu sắc bất động sản.

Trong bốn mục đích trên, thì ba mục đích đầu rõ ràng có liên quan mật thiết đến bất động sản, hay nói cách khác, đa phần những khoản vay có mục đích này thực chất là kinh doanh, mua bán bất động sản, chiếm 58% dư nợ cho vay. Điều này có vẻ mâu thuẫn với thời hạn của các khoản vay do ngân hàng này công bố. Tính đến 30-9-2013, dư nợ ngắn hạn của PNB chiếm đến 78% tổng dư nợ, như vậy đồng nghĩa với nhiều khoản vay kinh doanh bất động sản đang được cho vay ngắn hạn. Đây là sự mâu thuẫn nguy hiểm, nhưng dễ hiểu với nhiều ngân hàng thương mại của Việt Nam.
Vụ sáp nhập này có lẽ là hệ quả từ những biến động của Sacombank trước đây và việc sáp nhập chỉ đơn thuần là bớt đi một ngân hàng không cần thiết, theo chủ trương tái cơ cấu.

Trong khi đó, tài sản của PNB ghi nhận một khoản mục rất lớn, nhưng chưa bao giờ được làm rõ trong các báo cáo của PNB, đó là các khoản phải thu. Các khoản phải thu này chiếm 33% tổng tài sản, trong đó lãi và phí phải thu lên đến hơn 10.000 tỉ đồng, một tỷ lệ bất thường đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại.

Đối chiếu với nhiều ngân hàng khác đã và đang phải tái cơ cấu vì mất thanh khoản, bị sự chi phối của một nhóm cổ đông, PNB có sự tương đồng rõ nét. Điều đó thể hiện ở danh mục đầu tư nghèo nàn, đa phần chỉ tập trung cho vay bất động sản và có khoản phải thu lớn (ở các ngân hàng khác, khoản mục này thường là ủy thác mua trái phiếu chính phủ, mà thực chất là cho vay lách quy định). Với những hoạt động như vậy, không thể chờ đợi kết quả kinh doanh tốt ở PNB.

Bất thường hoạt động kinh doanh

Đến hết quí 3-2013, PNB đạt 205,7 tỉ đồng lợi nhuận sau thuế. Tuy vậy, hiệu quả kinh doanh vẫn ở mức rất thấp so với toàn ngành. ROA và ROE quí 3-2013 lần lượt là 0,27% và 4,61%, đã cải thiện từ mức còn thấp hơn, 0,16% và 2,78% vào cuối năm 2012.

PNB là trường hợp duy nhất được ghi nhận trong nhiều năm qua, khi có NIM (Net interest margin - tỷ lệ lãi cận biên) âm, tức là thu từ lãi thấp hơn chi trả lãi. Kết quả này xảy ra vào cuối năm 2012, khi thu nhập lãi thuần của PNB âm 285,6 tỉ.

Với một ngân hàng thương mại, nơi huy động vốn để cho vay, thì nguồn thu nhập chính của họ luôn luôn từ lãi vay, và lợi nhuận chủ yếu từ chênh lệch lãi giữa cho vay và huy động thì PNB có thời điểm đi ngược lại quy luật chung.


Điều này có thể được giải thích bằng nhiều cách. Có thể do lãi suất có xu hướng tăng (năm 2012) và thu nhập từ lãi cho vay tăng chậm hơn so với mức tăng của lãi tiền gửi. Điều này thực tế khó xảy ra, vì kỳ hạn điều chỉnh lãi suất cho vay của các ngân hàng thông thường khoảng 3 tháng/lần, và thực tế, không ngân hàng nào để lỗ vì lý do này.

Cách giải thích khác là có thể do nợ xấu phát sinh quá cao dẫn đến các khoản lãi và phí không thể thu hồi trong khi ngân hàng phải huy động với lãi suất cao. Giải thích này phù hợp với tình hình thị trường nhưng số liệu nợ xấu của PNB không cho thấy điều đó.

Nợ xấu của PNB năm 2012 tăng từ 2,32% đầu năm lên 3,02% vào cuối năm, không có khác biệt nhiều và vẫn rất an toàn. Tuy nhiên, số liệu về các khoản phải thu có thể củng cố hướng lập luận này, khi tăng từ khoảng 18.000 tỉ đồng đầu năm 2012 lên gần 25.000 tỉ đồng vào cuối năm, trong đó lãi và phí phải thu tăng từ khoảng 3.600 tỉ đồng lên khoảng 6.300 tỉ đồng. Vậy, phải chăng nợ xấu của PNB chưa phải là con số cuối cùng, xét theo công bố của ngân hàng này.

Sacombank được gì?

Vậy Sacombank có lợi gì khi nhận sáp nhập PNB? Theo một số thông tin từ Sacombank thì họ sẽ được thêm 141 điểm giao dịch, tổng tài sản sẽ đứng thứ 5 trong hệ thống, chỉ sau nhóm bốn ngân hàng quốc doanh. Nhưng điều đó có quá quan trọng với Sacombank?

Đối với một thương vụ sáp nhập, việc tăng mạng lưới và tổng tài sản là chuyện đương nhiên. Vấn đề là khi chọn một ngân hàng để sáp nhập, nên lựa chọn ngân hàng nào đang có hiệu quả, tài sản có chất lượng, quản trị tương đối ổn... thì việc sáp nhập mới có thể tạo ra một ngân hàng đồng thời lớn hơn và mạnh hơn. PNB không đáp ứng được điều này, đồng nghĩa với việc sau sáp nhập, Sacombank chỉ “to xác” hơn mà thôi, thậm chí có thể bị kéo thụt lùi về mặt chất lượng tài sản và hoạt động.

Vụ sáp nhập này có lẽ là hệ quả từ những biến động của Sacombank trước đây, khi gia đình ông Đặng Văn Thành rời khỏi Sacombank và sự xuất hiện của ông Trầm Bê cùng với nhóm cổ đông từ PNB đổ sang. Gia đình ông Trầm Bê vẫn đang hiện diện đầy đủ ở hai ngân hàng này, và việc sáp nhập chỉ đơn thuần là bớt đi một ngân hàng không cần thiết, theo chủ trương tái cơ cấu. Do đó, hiệu quả là vấn đề không cần đặt ra trong thương vụ này.

Monday, January 13, 2014

Bài tập tính… nợ xấu

Bài viết của chủ blog trên Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần.

(DNSGCT) Ngày 12/11/2013 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành văn bản số 8421/NHNN-TTGSNH về việc triển khai thực hiện Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) xây dựng và triển khai Kế hoạch xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng giai đoạn 2013- 2015. Động thái này của NHNN nhằm chuẩn bị cho điều gì?

Nỗ lực đánh giá lại nợ xấu
Công văn của NHNN đưa ra bốn vấn đề chính, đó là:
(i) Mục tiêu của việc xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng là phấn đấu đến cuối năm 2015 xử lý được cơ bản số nợ xấu hiện nay, kiểm soát có hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng.

(ii) Đánh giá thực trạng nợ xấu, chất lượng tín dụng của TCTD trong hai năm 2011, 2012 và sáu tháng đầu năm 2013.

(iii) Đề xuất các giải pháp để xử lý nợ xấu dự tính theo quy định tại Thông tư 02/2013/TT-NHNN (Thông tư 02).

(iv) Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng.

NHNN yêu cầu các TCTD đánh giá lại nợ xấu của tổ chức mình dựa trên khá nhiều tiêu chí như tài sản bảo đảm, đối tượng khách hàng, ngành nghề; từng chi nhánh, sở giao dịch… là yêu cầu khá mới so với trước đây.

Điều này có thể giúp các TCTD và cơ quan quản lý có cái nhìn đầy đủ về thực trạng nợ xấu của từng đơn vị và toàn hệ thống theo các tiêu chí cụ thể, giúp xây dựng định hướng phát triển tín dụng trong thời gian tới.

Những khoản vay để trả lãi cũng được NHNN yêu cầu đánh giá lại, điều chưa bao giờ đặt ra trước đây, trong đó bao gồm cả những khoản vay có lãi đến hạn không thể thanh toán và được gộp vào nợ gốc.

Về bản chất, đây là những khoản cho vay đảo nợ và sẽ được phân loại vào nợ xấu (Nhóm 3) theo quy định tại Thông tư 02. NHNN chú ý đến những khoản vay này, chứng tỏ NHNN đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến những nhóm lợi ích.
NHNN cũng yêu cầu các TCTD đánh giá số liệu nợ xấu, cơ cấu nợ xấu vào thời điểm 30/6/2013 trong các trường hợp:

(i) Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN (sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 18) nhưng không áp dụng Quyết định số 780

(ii) Theo Thông tư 02. Điều đó đồng nghĩa với việc số liệu nợ xấu hiện nay sẽ tăng lên rất cao. Theo thông tin từ Thống đốc trên diễn đàn Quốc hội vừa qua, có khoảng 300.000 tỉ đồng đã được cơ cấu lại, trong đó khoảng 60% sẽ được cộng thêm vào nợ xấu trong trường hợp không áp dụng Quyết định 780.

Liệu có những thay đổi?

Theo kế hoạch, Thông tư 02 quy định về phân loại tài sản Có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ có hiệu lực từ 1/6/2014 sau khi đã lùi một năm, kể từ ngày 1/6/2013.
Đây được xem là liều thuốc mạnh, một mặt quy định về phân loại nợ chặt chẽ hơn, mặt khác sẽ hủy bỏ Quyết định 780 về việc cho phép cơ cấu nợ mà không chuyển nhóm, làm bộc phát những khoản nợ xấu vẫn đang âm ỉ hiện nay.

Có thể xem Công văn số 8421/NHNN-TTGSNH lần này như là một bài tập dành cho các TCTD trước khi bước vào kỳ kiểm tra chính thức. Nếu các TCTD thực sự muốn biết “năng lực” của bản thân thì đây là cơ hội để có thể đánh giá một cách chính xác chất lượng tín dụng của đơn vị mình.
Nhìn thẳng, nhìn rõ vào thực trạng để có thể xây dựng những giải pháp xử lý cũng như nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới. Tuy nhiên, chắc chắn đó không phải là điều mà mọi TCTD đều muốn làm và/hoặc có thể làm được.

Nếu bài tập này đưa ra con số kết quả cuối cùng là nợ xấu quá cao, liệu NHNN sẽ có những điều chỉnh trong quy định về phân loại nợ của mình? Có thể lùi thời hạn hiệu lực của Thông tư 02 thêm một thời gian nữa, hay vẫn áp dụng Thông tư 02 nhưng cho phép duy trì hiệu lực của Quyết định 780 hay thậm chí là một giải pháp khác? NHNN có tính đến mục đích này khi ban hành Công văn 8421/NHNN-TTGSNH?

Nếu NHNN đang tính đến các giải pháp trên thì có thể nói chính sách đang nằm trong tay các TCTD, khi đó việc che giấu nợ xấu của các TCTD chưa hẳn đã tốt hơn việc “khai báo” sự thật. Tuy vậy, đó cũng chỉ là các giả thuyết, nếu các TCTD và NHNN coi trọng sự minh bạch, hệ thống các TCTD đã rơi vào “thảm cảnh” như ngày hôm nay.

Bài tập mà kết quả không phụ thuộc vào dữ liệu, chỉ phụ thuộc vào người tính.

LÊ DUY KHÁNH/DNSGCT